Rung nhĩ: Những điều người bệnh tim cần biết – Bệnh viện Nhân Dân 115

Buổi hoạt động và sinh hoạt CLB bệnh nhân của khoa Tim mạch tổng quát san sẻ những điều cần biết về rung nhĩ như : thế nào là rung nhĩ, yếu tố rủi ro tiềm ẩn, triệu chứng của rung nhĩ, rủi ro tiềm ẩn đột quỵ của người bị rung nhĩ, cách dùng thuốc chống đông, bệnh nhân rung nhĩ nên nhà hàng siêu thị thế nào ?
Buổi sinh hoạt CLB bệnh nhân của khoa Tim mạch tổng quát diễn ra vào tuần cuối của tháng 4 đề cập tới bệnh rung nhĩ, do BS.CK2 Phạm Tú Quỳnh trình bày.

Để mọi người hiểu thế nào là bệnh rung nhĩ, trước hết, BS Tú Quỳnh nói về cấu tạo của trái tim: Trái tim của bạn là một khối cơ rỗng, cơ tim co bóp được là nhờ các xung động điện kích thích đều đặn được phát ra từ chính quả tim.

Quả tim có 4 buồng. Hai buồng ở trên là tâm nhĩ. Tâm nhĩ phải nhận máu trở về từ các cơ quan trong cơ thể; tâm nhĩ trái nhận máu từ phổi. Hai tâm thất nằm dưới tâm nhĩ, nhận máu từ các tâm nhĩ tương ứng. Tâm thất phải đưa máu lên phổi để máu trao đổi ôxy. Tâm thất trái bơm máu giàu ôxy (sau khi được tâm thất phải bơm qua phổi để hấp thụ khí ôxy và thải khí cacbonic) đi đến các cơ quan trong cơ thể.

Nút xoang là nút chủ nhịp của quả tim. Nó là một tập hợp các tế bào cơ tim biệt hóa đặc biệt nằm ở phía trên tâm nhĩ phải, sát với nơi đổ vào của tĩnh mạch chủ trên. Bình thường nút xoang có khả năng đều đặn phát ra các xung động điện. Những xung động này sau đó được dẫn truyền đến các tế bào cơ tim lân cận và theo hệ thống dẫn truyền lan đi, chỉ huy quả tim co bóp nhịp nhàng.

Thông thường mỗi một chu kỳ co bóp của tim, xung động điện lan toả ra tâm nhĩ trước làm cho tâm nhĩ đang chứa đầy máu co lại, tống máu từ tâm nhĩ xuống tâm thất. Sau đó xung động điện lại đi theo một hệ thống dẫn truyền tới tâm thất làm cho hai tâm thất co bóp cùng một lúc. Khi tâm thất phải co, máu được đẩy lên phổi. Khi tâm thất trái co, máu đi đến các cơ quan trong cơ thể. Vì thế khi tim co bóp đều đặn, máu được đưa nhịp nhàng đi đến khắp các cơ quan của cơ thể bạn.

Những xung động điện này chỉ huy tim của bạn đập đều đặn suốt ngày đêm trong cả cuộc đời. Bình thường, tim đập khoảng 60 – 100 lần/phút khi nghỉ và nhanh hơn khi gắng sức.

Nếu quá trình hình thành và lan truyền xung điện của tim hoạt động không bình thường, sẽ dẫn đến co bóp của tim sẽ bị rối loạn. Khi xung động không xuất phát từ nút xoang mà thay vào đó xuất phát từ nhiều vị trí khác nhau trong hai buồng tâm nhĩ sẽ dẫn đến kích thích cơ nhĩ liên tục hoạt động ở trạng thái rung rung chứ không co bóp đồng bộ và nhịp nhàng. Tình trạng bệnh lý này được ta gọi là rung nhĩ.

Trong rung nhĩ, xung động điện hình thành rất nhanh (thường > 400 lần/phút) và không đều. Hai buồng tâm nhĩ không còn co bóp nhịp nhàng mà “rung lên” nên bơm máu không hiệu quả. Ngoài việc làm rối loạn co bóp cơ ở nhĩ, nếu tất cả những xung động này đều được truyền xuống tâm thất thì cũng sẽ gây hiện tượng tương tự ở nhĩ, làm cho tim không bơm được máu ra khỏi tim, có thể gây tụt huyết áp đột ngột thậm chí nguy hiểm đến tính mạng. Nhưng trên thực tế, những xung động này bị chặn một phần khi truyền qua nút nhĩ thất để xuống 2 tâm thất (nằm trong hệ thống dẫn truyền).

Tuy vậy, vẫn còn rất nhiều xung động của rung nhĩ vẫn đi qua được để xuống tới tâm thất và làm cho tâm thất đập nhanh và không đều dù vẫn còn chậm hơn tần số nhịp xung trên tầng nhĩ (thường <160 lần/phút).


Yếu tố rủi ro tiềm ẩn chính của rung nhĩ

– Tuổi trên 60
– Tăng huyết áp
– Bệnh động mạch vành
– Suy tim
– Bệnh lý van tim
– Tiền sử phẫu thuật tim mở
– Ngừng thở khi ngủ
– Bệnh lý tuyến giáp
– Đái tháo đường
– Bệnh phổi mạn tính
– Lạm dụng rượu/sử dụng chất kích thích
– Nhiễm trùng/bệnh lý nội ngoại khoa nặng

Triệu chứng của rung nhĩ như sau:

Người bị rung nhĩ có thể không có triệu chứng gì, một số khác lại thấy rất khó chịu. Nếu bạn bị rung nhĩ, bạn có thể có cảm giác như tim đập rất nhanh (đánh trống ngực), khó thở, cảm giác hụt hơi.

Choáng váng, vã mồ hôi và đau ngực cũng có thể xảy ra, đặc biệt khi tần số thất rất nhanh.
Khi rung nhĩ không được điều trị và tim thường xuyên phải đập rất nhanh, sẽ làm tim giãn ra và tống máu không hiệu quả. Đây là một nguyên nhân gây ra suy tim sung huyết. Nó có thể gây khó thở, cảm giác mệt mỏi, giảm khả năng hoạt động thể lực và phù.


Chẩn đoán rung nhĩ

– Chẩn đoán bằng điện tâm đồ – đây là một xét nghiệm thường quy.
– Có thể được phát hiện nhờ các thiết bị di động theo dõi nhịp tim trong khoảng thời gian dài như Holter điện tâm đồ.
– Điều trị rung nhĩ cần được bắt đầu ngay khi xác định được chẩn đoán.

Mục tiêu điều trị rung nhĩ

Dự phòng biến chứng do dung nhĩ gây ra: vì dung nhĩ dễ hình thành cục máu đông trong buồng nhĩ, cục máu đông có thể di chuyển theo dòng máu đi khắp cơ thể và gây tắc mạch, hay gặp nhất là mạch não gây đột quỵ não. Để phòng ngừa hình thành cục máu đông, các bệnh nhân bị rung nhĩ dược chỉ định dùng thuốc chống đông máu.

Chuyển về nhịp xoang bình thường và kiểm soát nhịp đập của tâm thất:

+ Đối với các trường hợp bị rung nhĩ cơn hoặc cấp tính, có thể chuyển về nhịp bình thường nhờ thuốc, sốc điện.

+ Khi bị rung nhĩ mạn tính, việc chuyển về nhịp bình thường khó khăn và hay tái phát nếu chuyển nhịp thành công. Còn đa số bệnh nhân bị rung nhĩ mạn tính được dùng thuốc, nhằm mục đính kiểm soát nhịp thất ở trong giới hạn bình thường, bằng các thuốc có tác dụng ngăn chặn các xung động điện từ nhĩ xuống tâm thất. Việc dùng thuốc, dùng biện pháp can thiệp qua da hay phẫu thuật phụ thuộc vào triệu chứng, mức độ bệnh và các bệnh kèm theo của bạn.

Chống đông trong rung nhĩ – phòng ngừa đột quỵ

– Thuốc chống đông còn gọi là thuốc làm loãng máu ngăn chặn quá trình hình thành cục máu đông.
– Thuốc chống đông đã được chứng minh làm giảm có ý nghĩa nguy cơ nhồi máu não.
– Thuốc chống đông có nguy cơ chảy máu

Các loại thuốc chống đông: Thuốc kháng vitamin K; Thuốc kháng đông mới (ức chế trực tiếp Thrombin, thuốc ức chế yếu tố Xa). Mỗi loại thuốc chống đông đều có những lợi ích và nguy cơ khác nhau.

Người bệnh rung nhĩ nên có biện pháp chăm sóc và phòng ngừa:

– Có chế độ ăn uống lành mạnh: ít muối và hạn chế chất béo bão hòa có trong thực phẩm chế biến sẵn, bánh ngọt, mỡ động vật; ăn nhiều trái cây tươi, rau xanh và hạt ngũ cốc như đậu tương, đậu xanh, đậu đỏ, lạc, vừng…
– Tập thể dục hàng ngày và tăng cường hoạt động thể chất.
– Bỏ thuốc lá và tránh xa môi trường khói thuốc.
– Duy trì cân nặng hợp lý: do béo phì thừa cân làm tăng nguy cơ phát triển bệnh tim.
– Kiểm soát tốt huyết áp và mức cholesterol bằng thuốc, chế độ ăn và lối sống.
– Uống rượu vừa phải: Đối với người lớn khỏe mạnh, phụ nữ và người trên 65 tuổi chỉ nên dùng tối đa một ly rượu nhỏ một ngày; ở nam giới tối đa là hai ly.
– Theo dõi và khám bệnh định kỳ để phát hiện sớm và kịp thời khi tình trạng bệnh nặng hơn.

Kết thúc nội dung trình bày, BS.CK2 Phạm Tú Quỳnh dặn dò: “Khi uống thuốc chống đông, cô bác chú ý là nên ăn rau đều đặn. Ví dụ mỗi ngày ăn 1 tô rau thì mình cố gắng duy trì mỗi ngày như vậy, chứ không nên ngày ăn ngày không, hôm nay không ăn rau rồi hôm sau ăn bù 2 tô rau là hoàn toàn không nên, cô bác nhé”.

Rung nhĩ và nguy cơ đột quỵ

Khi bị rung nhĩ, tâm nhĩ đập quá
nhanh (chỉ rung rung chứ không co bóp thành từng nhát), nên bơm máu
không hiệu quả. Khi máu bị ứ trệ lại trong các buồng nhĩ này dễ có
khuynh hướng tạo thành cục máu đông.

Nếu cục máu đông vỡ ra,
trôi theo dòng máu và đi đến não có thể làm tắc động mạch não gây ra đột
quỵ. Các bệnh nhân bị rung nhĩ có nguy cơ bị đột quỵ cao gấp 5 lần so
với những người không mắc rối loạn nhịp này.

Tuy đột quỵ không phải sẽ xảy ra ở tất cả các bệnh nhân rung nhĩ nhưng nguy cơ sẽ càng tăng cao hơn nếu bạn trên 65 tuổi.

BS.CK2 Phạm Tú Quỳnh

Kim Quy

Buổi hoạt động và sinh hoạt CLB bệnh nhân của khoa Tim mạch tổng quát diễn ra vào tuần cuối của tháng 4 đề cập tới bệnh rung nhĩ, do BS.CK 2 Phạm Tú Quỳnh trình diễn. Để mọi người hiểu thế nào là bệnh rung nhĩ, trước hết, BS Tú Quỳnh nói về cấu trúc của trái tim : Trái tim của bạn là một khối cơ rỗng, cơ tim co bóp được là nhờ những xung động điện kích thích đều đặn được phát ra từ chính quả tim. Quả tim có 4 buồng. Hai buồng ở trên là tâm nhĩ. Tâm nhĩ phải nhận máu quay trở lại từ những cơ quan trong khung hình ; tâm nhĩ trái nhận máu từ phổi. Hai tâm thất nằm dưới tâm nhĩ, nhận máu từ những tâm nhĩ tương ứng. Tâm thất phải đưa máu lên phổi để máu trao đổi ôxy. Tâm thất trái bơm máu giàu ôxy ( sau khi được tâm thất phải bơm qua phổi để hấp thụ khí ôxy và thải khí cacbonic ) đi đến những cơ quan trong khung hình. Nút xoang là nút chủ nhịp của quả tim. Nó là một tập hợp những tế bào cơ tim biệt hóa đặc biệt quan trọng nằm ở phía trên tâm nhĩ phải, sát với nơi đổ vào của tĩnh mạch chủ trên. Bình thường nút xoang có năng lực đều đặn phát ra những xung động điện. Những xung động này sau đó được dẫn truyền đến những tế bào cơ tim lân cận và theo mạng lưới hệ thống dẫn truyền lan đi, chỉ huy quả tim co bóp uyển chuyển. Thông thường mỗi một chu kỳ luân hồi co bóp của tim, xung động điện lan toả ra tâm nhĩ trước làm cho tâm nhĩ đang chứa đầy máu co lại, tống máu từ tâm nhĩ xuống tâm thất. Sau đó xung động điện lại đi theo một mạng lưới hệ thống dẫn truyền tới tâm thất làm cho hai tâm thất co bóp cùng một lúc. Khi tâm thất phải co, máu được đẩy lên phổi. Khi tâm thất trái co, máu đi đến những cơ quan trong khung hình. Vì thế khi tim co bóp đều đặn, máu được đưa uyển chuyển đi đến khắp những cơ quan của khung hình bạn. Những xung động điện này chỉ huy tim của bạn đập đều đặn suốt ngày đêm trong cả cuộc sống. Bình thường, tim đập khoảng chừng 60 – 100 lần / phút khi nghỉ và nhanh hơn khi gắng sức. Nếu quy trình hình thành và Viral xung điện của tim hoạt động giải trí không thông thường, sẽ dẫn đến co bóp của tim sẽ bị rối loạn. Khi xung động không xuất phát từ nút xoang mà thay vào đó xuất phát từ nhiều vị trí khác nhau trong hai buồng tâm nhĩ sẽ dẫn đến kích thích cơ nhĩ liên tục hoạt động giải trí ở trạng thái rung rung chứ không co bóp đồng nhất và uyển chuyển. Tình trạng bệnh lý này được ta gọi là rung nhĩ. Trong rung nhĩ, xung động điện hình thành rất nhanh ( thường > 400 lần / phút ) và không đều. Hai buồng tâm nhĩ không còn co bóp uyển chuyển mà “ rung lên ” nên bơm máu không hiệu suất cao. Ngoài việc làm rối loạn co bóp cơ ở nhĩ, nếu tổng thể những xung động này đều được truyền xuống tâm thất thì cũng sẽ gây hiện tượng kỳ lạ tựa như ở nhĩ, làm cho tim không bơm được máu ra khỏi tim, hoàn toàn có thể gây tụt huyết áp bất ngờ đột ngột thậm chí còn nguy khốn đến tính mạng con người. Nhưng trên thực tiễn, những xung động này bị chặn một phần khi truyền qua nút nhĩ thất để xuống 2 tâm thất ( nằm trong mạng lưới hệ thống dẫn truyền ). Tuy vậy, vẫn còn rất nhiều xung động của rung nhĩ vẫn đi qua được để xuống tới tâm thất và làm cho tâm thất đập nhanh và không đều dù vẫn còn chậm hơn tần số nhịp xung trên tầng nhĩ ( thường < 160 lần / phút ). - Tuổi trên 60 - Tăng huyết áp - Bệnh động mạch vành - Suy tim - Bệnh lý van tim - Tiền sử phẫu thuật tim mở - Ngừng thở khi ngủ - Bệnh lý tuyến giáp - Đái tháo đường - Bệnh phổi mạn tính - Lạm dụng rượu / sử dụng chất kích thích - Nhiễm trùng / bệnh lý nội ngoại khoa nặngNgười bị rung nhĩ hoàn toàn có thể không có triệu chứng gì, 1 số ít khác lại thấy rất không dễ chịu. Nếu bạn bị rung nhĩ, bạn hoàn toàn có thể có cảm xúc như tim đập rất nhanh ( đánh trống ngực ), khó thở, cảm xúc hụt hơi. Choáng váng, vã mồ hôi và đau ngực cũng hoàn toàn có thể xảy ra, đặc biệt quan trọng khi tần số thất rất nhanh. Khi rung nhĩ không được điều trị và tim tiếp tục phải đập rất nhanh, sẽ làm tim giãn ra và tống máu không hiệu suất cao. Đây là một nguyên do gây ra suy tim sung huyết. Nó hoàn toàn có thể gây khó thở, cảm xúc stress, giảm năng lực hoạt động giải trí thể lực và phù. - Chẩn đoán bằng điện tâm đồ - đây là một xét nghiệm thường quy. - Có thể được phát hiện nhờ những thiết bị di động theo dõi nhịp tim trong khoảng chừng thời hạn dài như Holter điện tâm đồ. - Điều trị rung nhĩ cần được mở màn ngay khi xác lập được chẩn đoán. Dự phòng biến chứng do dung nhĩ gây ra : vì dung nhĩ dễ hình thành cục máu đông trong buồng nhĩ, cục máu đông hoàn toàn có thể vận động và di chuyển theo dòng máu đi khắp khung hình và gây tắc mạch, hay gặp nhất là mạch não gây đột quỵ não. Để phòng ngừa hình thành cục máu đông, những bệnh nhân bị rung nhĩ dược chỉ định dùng thuốc chống đông máu. Chuyển về nhịp xoang thông thường và trấn áp nhịp đập của tâm thất : + Đối với những trường hợp bị rung nhĩ cơn hoặc cấp tính, hoàn toàn có thể chuyển về nhịp thông thường nhờ thuốc, sốc điện. + Khi bị rung nhĩ mạn tính, việc chuyển về nhịp thông thường khó khăn vất vả và hay tái phát nếu chuyển nhịp thành công xuất sắc. Còn đa phần bệnh nhân bị rung nhĩ mạn tính được dùng thuốc, nhằm mục đích mục đính trấn áp nhịp thất ở trong số lượng giới hạn thông thường, bằng những thuốc có tính năng ngăn ngừa những xung động điện từ nhĩ xuống tâm thất. Việc dùng thuốc, dùng giải pháp can thiệp qua da hay phẫu thuật phụ thuộc vào vào triệu chứng, mức độ bệnh và những bệnh kèm theo của bạn. - Thuốc chống đông còn gọi là thuốc làm loãng máu ngăn ngừa quy trình hình thành cục máu đông. - Thuốc chống đông đã được chứng tỏ làm giảm có ý nghĩa rủi ro tiềm ẩn nhồi máu não. - Thuốc chống đông có rủi ro tiềm ẩn chảy máuCác loại thuốc chống đông : Thuốc kháng vitamin K ; Thuốc kháng đông mới ( ức chế trực tiếp Thrombin, thuốc ức chế yếu tố Xa ). Mỗi loại thuốc chống đông đều có những quyền lợi và rủi ro tiềm ẩn khác nhau. - Có chính sách nhà hàng siêu thị lành mạnh : ít muối và hạn chế chất béo bão hòa có trong thực phẩm chế biến sẵn, bánh ngọt, mỡ động vật hoang dã ; ăn nhiều trái cây tươi, rau xanh và hạt ngũ cốc như đậu tương, đậu xanh, đậu đỏ, lạc, vừng … - Tập thể dục hàng ngày và tăng cường hoạt động giải trí sức khỏe thể chất. - Bỏ thuốc lá và tránh xa môi trường tự nhiên khói thuốc. - Duy trì cân nặng hài hòa và hợp lý : do béo phì thừa cân làm tăng rủi ro tiềm ẩn tăng trưởng bệnh tim. - Kiểm soát tốt huyết áp và mức cholesterol bằng thuốc, chính sách ăn và lối sống. - Uống rượu vừa phải : Đối với người lớn khỏe mạnh, phụ nữ và người trên 65 tuổi chỉ nên dùng tối đa một ly rượu nhỏ một ngày ; ở phái mạnh tối đa là hai ly. - Theo dõi và khám bệnh định kỳ để phát hiện sớm và kịp thời khi thực trạng bệnh nặng hơn. Kết thúc nội dung trình diễn, BS.CK 2 Phạm Tú Quỳnh dặn dò : “ Khi uống thuốc chống đông, cô bác quan tâm là nên ăn rau đều đặn. Ví dụ mỗi ngày ăn 1 tô rau thì mình cố gắng nỗ lực duy trì mỗi ngày như vậy, chứ không nên ngày ăn ngày không, ngày hôm nay không ăn rau rồi hôm sau ăn bù 2 tô rau là trọn vẹn không nên, cô bác nhé ” .


Có thể bạn quan tâm
© Copyright 2008 - 2016 Dịch Vụ Bách khoa Sửa Chữa Chuyên nghiệp.
Alternate Text Gọi ngay