Nhận diện tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ theo Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 – Trang thông tin điện tử Tòa án nhân dân thành phố Tam Kỳ

Tội Vi phạm quy định về tham gia giao thông vận tải đường đi bộ pháp luật tại Điều 260 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ trợ năm 2017 ( sau đây gọi là Bộ luật hình sự mới ). So với Điều 202 Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi, bổ trợ năm 2009 ( sau đây gọi là Bộ luật hình sự cũ ) và Điều 260 Bộ luật hình sự năm 2015 được Quốc hội khóa 13 trải qua tại kỳ họp thứ 10 ( sau đây gọi là Bộ luật hình sự 2015 ) thì có nhiều biến hóa quan trọng về cấu trúc điều luật, khung hình phạt, mức hình phạt tương quan. Chúng tôi trình làng đến bạn đọc tác dụng so sánh những điều luật, nhận diện sự đổi khác giữa Bộ luật hình sự mới và Bộ luật hình sự cũ, đồng thời xác lập 1 số ít yếu tố phát sinh tương quan nhằm mục đích giúp người đọc tiếp cận pháp luật của pháp lý và cùng trao đổi, góp ý kiến thiết xây dựng pháp lý .

I. So sánh các điều luật:

Chúng tôi trích dẫn từng điều luật, những nội dung bị gạch giữa là những lao lý của Bộ luật hình sự năm 2015 bị sửa đổi, bổ trợ năm 2017 ; những nội dung được in đậm là những lao lý của Bộ luật hình sự mới biến hóa so với lao lý của Bộ luật hình sự cũ :

– Điều 202 Bộ luật hình sự cũ: Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ

1. Người nào điều khiển và tinh chỉnh phương tiện đi lại giao thông vận tải đường đi bộ mà vi phạm pháp luật về bảo đảm an toàn giao thông vận tải đường đi bộ gây thiệt hại cho tính mạng con người hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khoẻ, gia tài của người khác, thì bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, tái tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến năm năm .
2. Phạm tội thuộc một trong những trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm :
a ) Không có giấy phép hoặc bằng lái xe theo lao lý ;
b ) Trong thực trạng có sử dụng rượu, bia mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn vượt quá mức pháp luật hoặc có sử dụng những chất kích thích mạnh khác mà pháp lý cấm sử dụng ;
c ) Gây tai nạn đáng tiếc rồi bỏ chạy để trốn tránh nghĩa vụ và trách nhiệm hoặc cố ý không tương hỗ người bị nạn ;
d ) Không chấp hành tín hiệu lệnh của người đang làm trách nhiệm điều khiển và tinh chỉnh hoặc hướng dẫn giao thông vận tải ;
đ ) Gây hậu quả rất nghiêm trọng .
3. Phạm tội gây hậu quả đặc biệt quan trọng nghiêm trọng thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm .
4. Vi phạm quy định về bảo đảm an toàn giao thông vận tải đường đi bộ mà có năng lực thực tiễn dẫn đến hậu quả đặc biệt quan trọng nghiêm trọng nếu không được ngăn ngừa kịp thời, thì bị phạt tái tạo không giam giữ đến một năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm .
5. Người phạm tội còn hoàn toàn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm việc làm nhất định từ một năm đến năm năm .
– Điều 260 Bộ luật hình sự năm 2015 : Tội vi phạm lao lý về tham gia giao thông vận tải đường đi bộ
1. Người nào tham gia giao thông vận tải đường đi bộ mà vi phạm pháp luật về bảo đảm an toàn giao thông vận tải đường bộ thuộc một trong những trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt tái tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm :
a ) Làm chết 01 người hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe thể chất của 01 người với tỷ suất tổn thương khung hình 61 % trở lên ;
b ) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe thể chất cho 02 người với tỷ suất tổn thương khung hình của mỗi người từ 31 % đến 60 % ;
c ) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe thể chất cho 03 người trở lên mà tổng tỷ suất tổn thương khung hình của những người này từ 61 % đến 121 % ;

d) Gây thiệt hại về tài sản từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm:
a) Không có giấy phép lái xe theo quy định;

b ) Trong thực trạng có sử dụng rượu, bia mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn vượt quá mức lao lý hoặc có sử dụng chất ma túy hoặc những chất kích thích mạnh khác mà pháp lý cấm sử dụng ;
c ) Gây tai nạn thương tâm rồi bỏ chạy để trốn tránh nghĩa vụ và trách nhiệm hoặc cố ý không tương hỗ người bị nạn ;

d) Không chấp hành hiệu lệnh của người điều khiển hoặc hướng dẫn giao thông;
đ) Làm chết 02 người;

e ) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe thể chất của 02 người với tỷ suất tổn thương khung hình của mỗi người 61 % trở lên ;
g ) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe thể chất của 03 người trở lên mà tổng tỷ suất tổn thương khung hình của những người này từ 122 % đến 200 % ;

h) Gây thiệt hại về tài sản từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.500.000.000 đồng.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:
a) Làm chết 03 người trở lên;

b ) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe thể chất của 03 người với tỷ suất tổn thương khung hình của mỗi người 61 % trở lên ;
c ) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe thể chất của 03 người trở lên mà tổng tỷ suất tổn thương khung hình của những người này 201 % trở lên ;
d ) Gây thiệt hại về gia tài 1.500.000.000 đồng trở lên .
4. Người tham gia giao thông vận tải đường đi bộ mà vi phạm pháp luật về bảo đảm an toàn giao thông vận tải đường đi bộ gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe thể chất của 01 người với tỷ suất tổn thương khung hình từ 31 % đến 60 % hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe thể chất của 02 người trở lên mà tổng tỷ suất tổn thương khung hình của những người này từ 31 % đến 60 %, thì bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng hoặc phạt tái tạo không giam giữ đến 03 năm .

5. Vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ mà có khả năng thực tế dẫn đến hậu quả gây thiệt hại cho tính mạng, sức khỏe hoặc tài sản của người khác nếu không được ngăn chặn kịp thời, thì bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 01 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm.
6. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm”.

– Điều 260 Bộ luật hình sự mới: Tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ

1. Người nào tham gia giao thông đường bộ mà vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ gây thiệt hại cho người khác thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

a) Làm chết người;

b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;

c) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 61% đến 121%;

d) Gây thiệt hại về tài sản từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm:

a ) Không có giấy phép lái xe theo pháp luật ;

b) Trong tình trạng có sử dụng rượu, bia mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn vượt quá mức quy định, có sử dụng chất ma túy hoặc chất kích thích mạnh khác;

c ) Bỏ chạy để trốn tránh nghĩa vụ và trách nhiệm hoặc cố ý không tương hỗ người bị nạn ;
d ) Không chấp hành tín hiệu lệnh của người điều khiển và tinh chỉnh hoặc hướng dẫn giao thông vận tải ;

đ) Làm chết 02 người;

e) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 122% đến 200%;

g) Gây thiệt hại về tài sản từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.500.000.000 đồng.

3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:

a) Làm chết 03 người trở lên;

b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 03 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này 201% trở lên;

c) Gây thiệt hại về tài sản 1.500.000.000 đồng trở lên.

4. Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ trong trường hợp có khả năng thực tế dẫn đến hậu quả quy định tại một trong các điểm a, b và c khoản 3 Điều này nếu không được ngăn chặn kịp thời, thì bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 01 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm.

5. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.

II. Nhiện diện sự thay đổi:

1. Về kết cấu của điều luật:

Điều 260 Bộ luật hình sự mới được kiến thiết xây dựng với cấu trúc gồm 05 khung hình phạt. Trong đó khung hình phạt cơ bản thuộc khoản 1, khung hình phạt dành cho trường hợp phạm tội chưa đạt thuộc khoản 4 và khung hình phạt lao lý về vận dụng giải pháp tư pháp ở khoản 5. Ở Bộ luật hình sự cũ, diễn biến định khung tăng nặng được phân thành những điểm ở khoản 2, những khoản còn lại không có điểm mà chỉ lao lý điều kiện kèm theo để vận dụng khung hình phạt nặng hơn. Điều 260 Bộ luật hình sự mới có 03 khung hình phạt, quy đinh những điểm ( diễn biến ) định khung, trong đó khoản 2 Điều 260 là có số diễn biến định khung nhiều nhất ( 7 điểm, từ điểm a đến điểm g ), khoản 1 có 04 điểm và khoản 3 có 03 điểm. So với Điều 202 Bộ luật hình sự cũ thì số khung hình phạt của Điều 260 Bộ luật hình sự mới không đổi khác, nhưng so với Bộ luật hình sự 2015 thì số khung hình phạt ở Bộ luật hình sự mới giảm hơn 01 khung hình phạt .

Ngoài ra, điều luật mới thay đổi từ điều khiển giao thông thành từ tham gia giao thông. Đây là sự sửa đổi phù hợp với quy định của Luật giao thông đường bộ, đồng thời bao quát được các đối tượng vi phạm quy định do Luật giao thông đường bộ điều chỉnh (không chỉ có người điều khiển phương tiện).

2. Về mức hậu quả cấu thành tội phạm và mức hình phạt:

2.1. Về mức hậu quả cấu thành tội phạm:

Khoản 1 Điều 202 Bộ luật hình sự cũ ( hướng dẫn đơn cử tại Điều 2 Thông tư liên tịch số 09/2013 / TTLT – BCA – BQP – BTP – VKSNDTC – TANDTC ngày 28 tháng 8 năm 2013 ) pháp luật mức hậu quả do vi phạm pháp luật về điều khiển và tinh chỉnh phương tiện đi lại giao thông vận tải đường đi bộ gây ra bị truy cứu nghĩa vụ và trách nhiệm hình sự là :
– Gây thương tích cho một người từ 31 % trở lên ;
– Hoặc gây tổn hại cho sức khỏe thể chất của một người với tỷ suất thương tật từ 21 % đến 30 % và còn gây thiệt hại về gia tài có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới bảy mươi triệu đồng ;
– Hoặc gây tổn hại cho sức khỏe thể chất của từ hai người trở lên với tỷ suất thương tật của mỗi người dưới 21 %, nhưng tổng tỷ suất thương tật của toàn bộ những người này từ 30 % đến 40 % và còn gây thiệt hại về gia tài với giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới bảy mươi triệu đồng ;
– Gây thiệt hại về gia tài có giá trị từ bảy mươi triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng .

So với quy định của Điều 202 của Bộ luật hình sự cũ thì Điều 260 Bộ luật hình sự mới đã thay đổi quy định về mức độ hậu quả do vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ làm cơ sở để quy kết trách nhiệm hình sự. Cụ thể là gây ra một trong các hậu quả sau đây mới bị truy cứu trách nhiệm hình sự:

– Làm chết người ;
– Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe thể chất của 01 người mà tỷ suất tổn thương khung hình 61 % trở lên ;
– Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe thể chất của 02 người trở lên mà tổng tỷ suất tổn thương khung hình của những người này từ 61 % đến 121 % ;
– Gây thiệt hại về gia tài từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng .

Theo đó, điều luật mới loại bỏ mức độ hậu quả gây tổn thương cơ thể của 01 người dưới 61%, loại bỏ mức độ hậu quả tổn thương cơ thể của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này dưới 61% và loại bỏ mức độ thiệt hại vật chất dưới 100.000.000 đồng làm cơ sở để truy cứu trách nhiệm hình sự về tội phạm này. Đồng thời điều luật mới cũng loại bỏ quy định cộng chung mức độ thiệt hại kép về sức khỏe con người và vật chất như quy định ở điều luật cũ. Tuy nhiên, chúng ta cần lưu ý là, khi chưa có thiệt hại xảy ra thì người vi phạm vẫn có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự nếu đủ các điều kiện quy định tại khoản 4 của Điều 260 Bộ luật hình sự mới.

2.2. Về hình phạt:

Điều 260 Bộ luật hình sự mới quy định hình phạt thấp nhất trong trường hợp tội phạm đã hoàn thành, hậu quả đã xảy ra là phạt tiền 30.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm, phạt tù 01 năm; hình phạt cao nhất là phạt tù đến 15 năm. Như vậy, so với quy định của Điều 202 Bộ luật hình sự cũ thì mức hình phạt thấp nhất về phạt tiền (là hình phạt chính) tăng lên gấp 6 lần (từ 5.000.000 đồng lên 30.000.000 đồng) nhưng mức hình phạt cao nhất về hình phạt tù có thời hạn không thay đổi. Nhìn tổng thể về phần hình phạt thì quy định của Điều 260 Bộ luật hình sự mới so với quy định tại Điều 202 Bộ luật hình sự cũ là không có lợi cho người phạm tội đối với những hành vi phạm tội xảy ra trước 0h00 phút ngày 01 tháng 01 năm 2018. Nhưng ở khía cạnh các yếu tố cấu thành tội phạm (trong chuyên ngành chúng ta gọi là khung cơ bản) thì Điều 260 Bộ luật hình sự mới quy định có lợi hơn cho người phạm tội so với Điều 202 Bộ luật hình sự cũ (kể cả trường hợp tội phạm chưa đạt – khoản 4). Do vậy, nếu xem xét mức độ hậu quả do hành vi phạm tội gây ra liên quan đến tội phạm này ở góc độ có tội hay không có tội thì căn cứ vào Điều 260 Bộ luật hình sự mới, nếu xem xét để quyết định hình phạt của bị cáo (trong trường hợp đủ yếu tố cấu thành tội phạm) thì áp dụng Điều 202 Bộ luật hình sự cũ đối với những hành vi phạm tội xảy ra trước 0h00 phút ngày 01 tháng 01 năm 2018.

Ngoài ra, theo quy định tại khoản 3 Điều 29 Bộ luật hình sự mới thì “Người thực hiện tội phạm nghiêm trọng do vô ý hoặc tội phạm ít nghiêm trọng gây thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm hoặc tài sản của người khác và được người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của người bị hại tự nguyện hòa giải và đề nghị miễn trách nhiệm hình sự, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự. Đối chiếu quy định này với khoản 1 Điều 260 Bộ luật hình sự mới thì mức hình phạt cao nhất của khung hình phạt này là 05 năm tù, người phạm tội nếu bị xét xử ở khung hình phạt này thì thuộc trường hợp tội phạm nghiêm trọng và lỗi do vô ý. Theo đó, nếu người phạm tội bị xét xử theo khoản 1 Điều 260 Bộ luật hình sự mới thì có thể họ được miễn trách nhiệm hình sự nếu thỏa mãn các điều kiện quy định tại khoản 3 Điều 29 Bộ luật hình sự mới. Đây là quy định có lợi cho người phạm tội mà chúng ta cần phải chú ý khi áp dụng pháp luật đối với những hành vi phạm tội liên quan đến tội phạm này.

3. Những nội dung thay đổi ở từng khung hình phạt;

3.1. Về khoản 1 của điều luật:

Về cấu trúc, khoản 1 Điều 202 Bộ luật hình sự cũ không phân định những diễn biến định khung cơ bản, chỉ xác lập mức độ hậu quả để làm cơ sở truy cứu nghĩa vụ và trách nhiệm hình sự so với người có hành vi vi phạm luật giao thông vận tải đường đi bộ là “ gây thiệt hại cho tính mạng con người hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khoẻ, gia tài của người khác ”, mức độ hậu quả này được hướng dẫn đơn cử tại những văn bản dưới luật sau đây :
– Tiểu mục 4.1. Mục 4 Nghị quyết 02/2003 / NQ – HĐTP hướng dẫn vận dụng một số ít lao lý của bộ luật hình sự pháp luật : “ Người tinh chỉnh và điều khiển phương tiện đi lại giao thông vận tải đường đi bộ mà vi phạm lao lý về bảo đảm an toàn giao thông vận tải đường đi bộ nếu chỉ địa thế căn cứ vào thiệt hại xảy ra, thì gây thiệt hại cho tính mạng con người hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khoẻ, gia tài của người khác thuộc một trong những trường hợp sau đây phải chịu nghĩa vụ và trách nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 202 Bộ luật Hình sự :
a. Làm chết một người ;
b. Gây tổn hại cho sức khoẻ của một đến hai người với tỷ suất thương tật của mỗi người từ 31 % trở lên ;
c. Gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người với tỷ suất thương tật của mỗi người dưới 31 %, nhưng tổng tỷ suất thương tật của toàn bộ những người này từ 41 % đến 100 % ;

d. Gây tổn hại cho sức khoẻ của một người với tỷ lệ thương tật từ 21% đến 30% và còn gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ ba mươi triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng;
đ. Gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người, với tỷ lệ thương tật của mỗi người dưới 21%, nhưng tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người này từ 30% đến 40% và còn gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ ba mươi triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng;
e. Gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng”.

– Thông tư liên tịch số 09/2013/TTLT – BCA – BQP – BTP – VKSNDTC -TANDTC hướng dẫn tại Điều Anchor2 là: “Gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khỏe, tài sản của người khác hoặc gây hậu quả nghiêm trọng quy định tại khoản 1 Điều 202 đến Điều 205, Điều 208 đến Điều 215, Điều 217, Điều 220; khoản 2 các điều 206, 207, 216, 218, 219, 222, 223 Bộ luật hình sự là một trong các trường hợp sau đây:

a ) Làm chết một người ;
b ) Gây tổn hại cho sức khỏe thể chất của một đến hai người với tỷ suất thương tật của mỗi người từ 31 % trở lên ;
c ) Gây tổn hại cho sức khỏe thể chất của từ hai người trở lên với tỷ suất thương tật của mỗi người dưới 31 %, nhưng tổng tỷ suất thương tật của toàn bộ những người này từ 41 % đến 100 % ;
d ) Gây tổn hại cho sức khỏe thể chất của một người với tỷ suất thương tật từ 21 % đến 30 % và còn gây thiệt hại về gia tài có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới bảy mươi triệu đồng ;
đ ) Gây tổn hại cho sức khỏe thể chất của từ hai người trở lên với tỷ suất thương tật của mỗi người dưới 21 %, nhưng tổng tỷ suất thương tật của tổng thể những người này từ 30 % đến 40 % và còn gây thiệt hại về gia tài với giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới bảy mươi triệu đồng ;
e ) Gây thiệt hại về gia tài có giá trị từ bảy mươi triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng ”
Khoản 1 Điều 260 Bộ luật hình sự mới thiết theo hướng xác lập đơn cử định mức thấp nhất hậu quả thiệt hại làm cơ sở để truy cứu nghĩa vụ và trách nhiệm hình sự so với hành vi vi phạm lao lý về tham gia giao thông vận tải đường đi bộ gồm 04 mức tương ứng tại những điểm a, b, c, d khoản 1. Trong đó, điểm a là pháp luật về hậu quả xâm phạm tính mạng con người con người, điểm b, c pháp luật về hậu quả xâm phạm sức khỏe thể chất con người và điểm d là lao lý hậu quả xâm phạm gia tài của người khác .
Đối chiếu lao lý tại 4 điểm trong khoản 1 Điều 260 Bộ luật hình sự mới với hướng dẫn tại những văn bản dưới luật đã viện dẫn trên thì thấy, điểm a và điểm d của điều luật mới là lao lý pháp điển hóa hướng dẫn tại khoản 1 Điều 2 Thông tư liên tịch số 09/2013 / TTLT – BCA – BQP – BTP – VKSNDTC – TANDTC. Trong đó mức độ hậu quả tại điểm a được giữ nguyên ( làm chết người ), mức độ hậu quả tại điểm d được giữ nguyên phần thiệt hại gia tài cao nhất ( dưới 500.000.000 đồng ), sửa đổi phần thiệt hại gia tài thấp nhất ( từ 70.000.000 đồng lên 100.000.000 đồng ) .
Hai diễn biến định khung cơ bản còn lại pháp luật tại điểm b, điểm c khoản 1 Điều 260 Bộ luật hình sự mới cũng được phiên từ hướng dẫn tại Điều 2 Thông tư liên tịch số 09/2013 / TTLT – BCA – BQP – BTP – VKSNDTC – TANDTC nhưng mức độ thiệt hại về sức khỏe thể chất con người có đổi khác theo hướng tỷ suất tổn thương khung hình một người bị tổn hại dưới 61 % thì không truy cứu nghĩa vụ và trách nhiệm hình sự và tỷ suất tổn thương khung hình của hai người trở lên mà tổng tỷ suất tổn thương khung hình của họ dưới 61 % cũng không bị truy cứu nghĩa vụ và trách nhiệm hình sự .
Một biến hóa nữa trong khoản 1 Điều 260 Bộ luật hình sự mới là mức hình phạt. Trong đó mức khởi điểm của hình phạt tiền tăng lên gấp 6 lần, mức cao nhất của phạt tiền tăng gấp 02 lần ( từ 50.000.000 đồng lên 100.000.000 đồng ) ; giữ nguyên mức hình phạt tái tạo không giam giữ ; tăng mức khởi điểm của hình phạt tù có thời hạn từ 06 tháng lên 01 năm .

Cũng cần quan tâm là, các quy định tại khoản 1 Điều 260 Bộ luật hình sự mới so với khoản 1 Điều 260 Bộ luật hình sự 2015 thì những nội dung cụ thể tại các điểm a, b, c đều bị sửa đổi, chỉ giữ nguyên quy định tại điểm d.

3.2. Về khoản 2 của điều luật:

Khoản 2 Điều 260 Bộ luật hình sự mới được thiết kế theo mô tip của khoản 2 Điều 202 Bộ luật hình sự cũ nhưng bổ sung thêm 03 tình tiết định khung tăng nặng với phương pháp liệt kê cụ thể quy định “gây hậu quả rất nghiêm trọng” theo điểm đ Điều 202 Bộ luật hình sự cũ thành 03 tình tiết tại các điểm đ, e, g khoản 2 Điều 260 Bộ luật hình sự mới. Mức độ hậu quả thiệt hại được ấn định ở các điểm đ, e, g khoản 2 Điều 260 Bộ luật hình sự mới về bản chất là sự pháp điển hóa hướng dẫn tại khoản 2 Điều 2 Thông tư liên tịch số 09/2013/TTLT – BCA – BQP – BTP – VKSNDTC – TANDTC. Trong đó, điểm  đ, g khoản 2 Điều 260 Bộ luật hình sự mới là quy định giữ nguyên nội dung của các điểm a, e khoản 2 Điều 2 của Thông tư liên tịch 09/2013; còn lại mức độ hậu quả xâm hại sức khỏe của người khác quy định tại điểm e khoản 2 Điều 260 Bộ luật hình sự mới không giống với bất kỳ hướng dẫn nào tại các điểm còn lại thuộc khoản 2 Điều 2 Thông tư 09/2013, chỉ có một nội dung giống nhau mang tính nguyên tắc là tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của nhiều người (từ 02 người trở lên) trên 200% thì sẽ bị truy cứu trách hiệm hình sự ở khoản cao hơn (mức cũ theo Thông tư là từ 100% đến 200%, mức theo điều luật mới là từ 122% đến 200%).

Ngoài ra, hai tình tiết định khung tăng nặng theo quy định tại các điểm b và c của khoản 2 Điều 202 Bộ luật hình sự cũ được sửa đổi một số nội dung nhỏ tại quy định tương ứng của Điều 260 Bộ luật hình sự mới. Cụ thể, nội dung điểm b khoản 2 Điều 260 có thêm tình tiết “có sử dụng chất ma túy” vào trước cụm từ “hoặc các chất kích thích mạnh khác”; nội dung quy định tại điểm c đã loại bỏ cụm từ “gây tại nạn rồi” của quy định cũ – theo quy định cũ thì cụm từ “gây tai nạn rồi” này không có ý nghĩa thực tiễn cao vì bản chất điều luật đang điều chỉnh hành vi vi phạm luật giao thông đương bộ gây tai nạn hoặc có nguy cơ rõ ràng gây tai nạn với một mức độ hậu quả được ấn định cụ thể.

So với khoản 2 Điều 260 Bộ luật hình sự năm 2015 thì khoản 2 Điều 260 Bộ luật hình sự mới có đổi khác 03 nội dung tại những điểm c, e, g .

3.3. Về khoản 3 của điều luật:

Khoản 3 Điều 260 Bộ luật hình sự mới được phong cách thiết kế với 03 diễn biến định khung tăng nặng. Cách diễn đạt này có khác so với khoản 3 Điều 202 Bộ luật hình sự cũ nhưng về thực chất thì những diễn biến định khung pháp luật tại những điểm a, b, c khoản 3 Điều 260 Bộ luật hình sự mới là phương pháp diễn giải cụ thể yếu tố định khung của khoản 3 Điều 202 Bộ luật hình sự cũ là “ gây hậu quả đặc biệt quan trọng nghiêm trọng ”. Trong đó, điểm a và điểm c khoản 3 Điều 260 Bộ luật hình sự mới là việc pháp điển hóa hàng loạt nội dung lao lý tại điểm a, điểm g khoản 3 Điều 2 Thông tư liên tịch số 09/2013 / TTLT – BCA – BQP – BTP – VKSNDTC – TANDTC. Riêng điểm b khoản 3 Điều 260 Bộ luật hình sự mới thì có biến hóa về mức độ hậu quả so với những điểm còn lại b, c, d, đ, e khoản 3 Điều 2 của Thông tư liên tịch số 09/2013 / TTLT – BCA – BQP – BTP – VKSNDTC – TANDTC .
So với pháp luật tại khoản 3 Điều 260 Bộ luật hình sự năm 2015, thì lao lý mới ( sửa đổi, bổ trợ năm 2017 ) đã bỏ 01 diễn biến định khung tăng nặng tại điểm b khoản 3 Điều 260 Bộ luật hình sự 2015 ( từ 4 diễn biến định khung sửa thành 3 diễn biến định khung ) .

3.4. Về khoản 4 của điều luật:

Khoản 4 Điều 260 Bộ luật hình sự mới có ba nội dung biến hóa quan trọng so với khoản 4 Điều 202 Bộ luật hình sự cũ .

Thứ nhất, nếu quy định về hậu quả có thể xảy ra tại khoản 4 Điều 202 của Bộ luật hình sự cũ là “đặc biệt nghiêm trọng” thì khoản 4 Điều 260 Bộ luật hình sự mới liệt kê rõ các hậu quả có thể xảy ra thuộc các điểm a, b, c ở khoản 3 của điều luật này;

Thứ hai, khoản 4 Điều 202 Bộ luật hình sự cũ không có hình phạt tiền, khoản 4 Điều 260 Bộ luật hình sự mới quy định hình phạt tiền là hình phạt chính với mức từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng;

Thứ ba, mức cao nhất tại khung hình phạt tù có thời hạn ở khoản 4 Điều 260 Bộ luật hình sự mới thấp hơn khoản 4 Điều 202 Bộ luật hình sự cũ 01 năm tù (mới là từ 03 tháng đến 01 năm; cũ là từ 03 tháng đến 02 năm);

Bộ luật hình sự mới bỏ khoản 4 Điều 260 Bộ luật hình sự năm 2015, chuyển khoản 5 Điều 260 Bộ luật hình sự 2015 thành khoản 4 Điều 260 Bộ luật hình sự mới và có sửa lại một số cụm từ cho phù hợp. Trong đó, có nội dung thay đổi chủ yếu là: Sửa đổi quy định “có khả năng thực tế dẫn đến hậu quả gây thiệt hại cho tính mạng, sức khỏe hoặc tài sản của người khác” thành qui định “có khả năng thực tế dẫn đến hậu quả quy định tại một trong các điểm a, b và c khoản 3 Điều này”;

III. Một số vấn đề phát sinh và kiến nghị, đề xuất

1. Một số nội dung cần sớm có văn bản hướng dẫn thi hành:

– Điểm b khoản 2 Điều 260 Bộ luật hình sự mới bổ sung nội dung “có sử dụng chất ma túy” là tình tiết định khung tăng nặng. Tuy nhiên, thực tiễn cuộc sống hiện nay cho thấy có rất nhiều loại ma túy, các chất tương tự như ma túy được sử dung tràn lan trong xã hội như: Methammethamine, herroin, cần sa, cỏ Mỹ, bù đà….Trong khi đó, khi các vụ tai nạn giao thông xảy ra, đối với trường hợp người gây tai nạn giao thông, người bị tai nạn giao thông được đưa đến cơ sở y tế để cấp cữu thì chưa có cơ sở y tế nào được giao nhiệm vụ tổ chức xét nghiệm ma túy của người được đưa vào cấp cứu, hiện chỉ làm được việc đo nồng độ cồn trong máu hoặc trong hơi thở. Trường hợp người gây tai nạn đến trình diện tại cơ quan công an có thẩm quyền thì việc tex nhanh có sử dụng ma túy hay không chưa được văn bản pháp luật hướng dẫn trong trường hợp đối với tai nạn giao thông. Thời gian có hiệu lực của Bộ luật hình sự mới đã cận kề, nên chắc chắn nếu không có quy định, hướng dẫn cụ thể việc này sẽ gây ra sự lúng túng trong quá trình tiến hành tố tụng, nhất là tình trạng thanh thiếu niên ngáo đá, điều khiển xe đua nhau trên đường phố diễn ra phổ biến như hiện nay.

– Khoản 3 Điều 29 Bộ luật hình sự mới quy định về trường hợp miễn trách nhiệm hình sự. Trong đó, trường hợp bị cáo bị xét xử theo khoản 1 Điều 260 Bộ luật hình sự mới có thể được xem xét miễn trách nhiệm hình sự khi đủ điều kiện. Đây là quy định có lợi cho người phạm tội được áp dụng từ khi Bộ luật hình sự mới được công bố theo Nghị quyết 41/2017/NQ – QH14 ngày 20 tháng 6 năm 2017. Tuy nhiên, hiện nay chưa có văn bản nào hướng dẫn trường hợp bị cáo được miễn trách nhiệm hình sự thì vấn đề xử lý giấy phép lái xe có đặt ra không, có tước giấy phép lái xe có thời hạn không? Vấn đề án phí hình sự sơ thẩm sẽ xử lý như thế nào?. Điều này thực tiễn đã gây lúng túng cho công tác xét xử các vụ án vi phạm quy định luật giao thông đường bộ từ ngày Bộ luật hình sự mới được công bố đến nay.

2. Một số vấn đề vướng mắc phát sinh:

– Nghị định số 46/2016 / NĐ – CP ngày 26 tháng 5 năm năm nay lao lý rất rõ về điều kiện kèm theo, trường hợp bị tịch thu giấy phép lái xe có thời hạn. Thế nhưng trong trường hợp người vi phạm pháp lý giao thông vận tải đường đi bộ bị truy cứu nghĩa vụ và trách nhiệm hình sự thì Điều 202 Bộ luật hình sự cũ, Điều 260 Bộ luật hình sự mới không đề cập đến. Khoản 5 của những điều luật này lao lý về “ cấm đảm nhiệm chức vụ ”. “ cấm hành nghề ”, “ hoặc làm việc làm nhất định ” …. Do vậy, thưc tiễn xét xử cho thấy mặc dầu hậu quả vụ tai nạn đáng tiếc xảy ra nghiêm trọng, người gây tai nạn đáng tiếc bị truy cứu nghĩa vụ và trách nhiệm hình sự, được cho hưởng án treo hoặc được vận dụng hình phạt không phải tù có thời hạn thì đa phần những bản án đều tuyên trả lại giấy phép lái xe cho bị cáo, nhất là những bị cáo lái xe moto. Quyết định như vậy vô hình dung chung giải quyết và xử lý nghĩa vụ và trách nhiệm của người lái xe vi phạm pháp luật hình sự không nghiêm khi so sánh với người lái xe vi phạm pháp luật hành chính bị tước bằng lái có thời hạn .
– Điều 2 và Điều 3 Thông tư liên tịch số 09/2013 / TTLT – BCA – BQP – BTP – VKSNDTC – TANDTC pháp luật rất chi tiết cụ thể những mức hậu quả đển xác lập trường hợp nào là nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, đặc biệt quan trọng nghiêm trọng. Trong đó có sự tổng hợp giữa hậu quả tính mạng con người, sức khỏe thể chất con người với hậu quả về vật chất ; và cũng có sự tổng hợp giữa hậu quả vừa tương quan đến tính mạng con người con người, vừa tương quan đến sức khỏe thể chất con người. Hướng dẫn này phần nào đã tháo gỡ những khó khăn vất vả trong thực tiễn vận dụng, đảm vảo những vấn đề với từng mức độ hậu quả gây ra khác nhau được xét xử công minh hơn. Thế nhưng, Điều 260 Bộ luật hình sự mới đã không sử dụng hết những nội dung được hướng dẫn theo cách tính thiệt hại của Thông tư liên tịch số 09/2013 / TTLT – BCA – BQP – BTP – VKSNDTC – TANDTC, dẫn đến trên thực tiễn sẽ có nhiều trường hợp chênh nhau về mức độ chịu nghĩa vụ và trách nhiệm hình sự, làm tác động ảnh hưởng đến yếu tố công minh khi xét xử .

Ví dụ: A lái xe vi phạm Luật giao thông đường bộ, gây tai nạn làm chết người và gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe của 02 người, với tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể là 120%, gây thiệt hại về tài sản 450.000.000 đồng. Theo đó, A bị xét xử theo các điểm a, c, d khoản 1 Điều 260 Bộ luật hình sự mới. Trong trường hợp vụ án đủ điều kiện theo quy định tại khoản 3 Điều 29 Bộ luật hình sự mới thì có thể A được xem xét miễn trách nhiệm hình sự.

Trong khi đó B cũng lái xe vi phạm Luật giao thông đường bộ, gây hậu quả tổn hại sức khỏe cho 02 người với tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể là 130% thì nhất định B bị xét xử theo điểm c khoản 2 Điều 260 Bộ luật hình sự mới và không được phép miễn trách nhiệm hình sự đối với B theo khoản 3 Điều 29 Bộ luật hình sự mới.

So sánh hai mức độ hậu quả của A và B gây ra và hai mức độ nghĩa vụ và trách nhiệm hình sự A và B hoàn toàn có thể bị vận dụng sẽ thấy rất rõ sự không công minh, thiếu sức thuyết phục khi vận dụng lao lý của Điều 260 vào thực tiễn .
– Tình tiết định khung tăng nặng lao lý tại những điểm a, b, c, d khoản 2 Điều 260 Bộ luật hình sự mới không được lao lý ở khoản 3 của Điều luật này ( kèm theo điều kiện kèm theo gây ra hậu quả thuộc những điểm đ, e, g khoản 2 Điều 260 ). Điều đó sẽ tạo ra sự mất công bằng khi một người tham gia giao thông vận tải vi phạm lao lý của Luật giao thông vận tải đường đi bộ, gây ra hậu quả thuộc khoản 1 nhưng vì thuộc một trong những trường hợp theo pháp luật tại điểm a, b, c, d khoản 2 nên bị xét xử theo khoản 2 Điều 260 Bộ luật hình sự mới. Tương tự như vậy, một người tham gia giao thông vận tải vi phạm Luật giao thông vận tải đường đi bộ, gây ra mức hậu quả ở khoản 2 Điều 260 Bộ luật hình sự mới ( chết 2 người ), và họ thuộc một trong những trường hợp theo lao lý tại những điểm a, b, c, d khoản 2 Điều 260 Bộ luật hình sự mới thì cũng chỉ xét xử họ ở khoản 2 Điều 260 Bộ luật hình sự mới ( mặc dầu biết rằng khi xét xử, hình phạt của người bị vận dụng nhiều diễn biến định khung tăng nặng khi nào cũng cao hơn, nhưng điều này chỉ nhìn thấy rõ và triển khai được nếu những bị cáo cùng xét xử trong một vụ án hoặc tại cùng một Tòa án ) .

Ví dụ: A không có giấy phép lái xe hợp lệ, lái xe vi phạm Luật giao thông đường bộ, gây hậu quả chết 01 người. A bị xét xử theo điểm a khoản 2 Điều 260 Bộ luật hình sự mới với khung hình phạt tù tư 03 năm đến 10 năm.

B cũng không có giấy phép lái xe, lái xe trong thực trạng hơi thở có nồng độ cồn vượt mức lao lý, vi phạm luật giao thông vận tải đường đi bộ, gây hậu quả chết 02 người. B cũng chỉ bị xét xử theo những điểm a, b, đ khoản 2 Điều 260 Bộ luật hình sự mới với khung hình phạt từ 03 năm tù đến 10 năm tù .

3. Một số kiến nghị, đề xuất:

– Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao sớm có văn bản hướng dẫn những điểm mới quy định tại khoản 2 Điều 260 Bộ luật hình sự mới về điều kiện, thủ tục áp dụng tình tiết “có sử dụng ma túy…” và những nội dung liên quan đến việc áp dụng khoản 3 Điều 29 Bộ luật hình sự mới miễn trách nhiệm hình sự cho các bị cáo phạm tội theo khoản 1 Điều 260 Bộ luật hình sự mới, trong đó cần chú ý vấn đề xử lý vật chứng liên quan đến giấy phép lái xe (cả cho trường hợp miễn trách nhiệm hình sự lẫn trường hợp không áp dụng hình phạt tù có thời hạn), vấn đề án phí hình sự đối với bị cáo được miễn trách nhiệm hình sự.

– Tòa án nhân dân tối cao cần sớm tổng kết thực tiễn thi hành Điều 260 Bộ luật hình sự mới trong năm 2018 và xem xét, yêu cầu cấp có thẩm quyền bổ trợ những diễn biến định khung hình phạt mới như : Tình tiết định khung mới ở khoản 3 được tính từ sự tổng hợp một trong những điểm a, b, c, đ khoản 2 với mức độ hây hậu quả rất nghiêm trọng ở những điểm d, e, g khoản 2 ; diễn biến định khung mới ở khoản 2 được tính từ sự tổng hợp vừa hậu quả về tính mạng con người, sức khỏe thể chất con người với mức hậu quả về thiệt hại vật chất theo khoản 1 Điều 260 Bộ luật hình sự mới ( tựa như như vậy thì thiết kế xây dựng thêm diễn biến định khung mới ở khoản 3 Điều 260 ) .

Ví dụ 1: Làm chết 01 người và gây thiệt hại về tài sản từ 100 triệu đến dưới 500 triệu thì bị xét xử theo khoản 2; làm chết 02 người và gây thiệt hại về tài sản từ 500 triệu đến dưới 1 tỷ rưỡi thì xét xử theo khoản 3…

Ví dụ 2: Gây chết 02 người và không có giấy phép lái xe hợp lệ thì bị xét xử theo khoản 3 Điều 260 Bộ luật hình sự mới…

Trên đây là tác dụng nhận diện sự biến hóa của tội Vi phạm lao lý khi tham gia giao thông vận tải đường đi bộ theo Điều 260 Bộ luật hình sự mới so với Điều 202 Bộ luật hình sự cũ và nêu lên 1 số ít yếu tố vướng mắc, đề xuất kiến nghị để góp thêm phần hoàn thành xong pháp lý, mong nhận được sự chăm sóc của đồng nghiệp và bạn đọc .

Nguyễn Văn Dũng – Phó Chánh án TAND thành phố Tam Kỳ

Tài liệu Giao hàng điều tra và nghiên cứu. Bất kỳ hình thức sao chép một phần hoặc hàng loạt nội dung dưới mọi hình thức đều bị nghiêm cấm .


Có thể bạn quan tâm
© Copyright 2008 - 2016 Dịch Vụ Bách khoa Sửa Chữa Chuyên nghiệp.
Alternate Text Gọi ngay