Định giá hàng tồn kho – Wikipedia tiếng Việt

Định giá hàng tồn kho cho phép một công ty cung cấp một giá trị tiền tệ cho các mặt hàng tạo nên hàng tồn kho của họ. Hàng tồn kho thường là tài sản lớn nhất hiện tại của một doanh nghiệp và việc đo lường chúng là cần thiết để đảm bảo báo cáo tài chính chính xác. Nếu hàng tồn kho không được đo lường chính xác, chi phí và doanh thu không thể được kết hợp đúng và một công ty có thể đưa ra quyết định kinh doanh kém.

Hệ thống kế toán hàng tồn kho

[sửa|sửa mã nguồn]

Hai mạng lưới hệ thống kế toán hàng tồn kho được sử dụng thoáng rộng nhất là định kỳ và liên tục .

  • Liên tục: Hệ thống kiểm kê liên tục yêu cầu hồ sơ kế toán để hiển thị số lượng hàng tồn kho trong tay mọi lúc. Nó duy trì một tài khoản riêng trong sổ cái công ty con cho mỗi hàng hóa trong kho và tài khoản được cập nhật mỗi khi số lượng được thêm hoặc lấy ra.
  • Định kỳ: Trong hệ thống kiểm kê định kỳ, doanh số được ghi nhận khi chúng xảy ra nhưng hàng tồn kho không được cập nhật. Một hàng tồn kho vật lý phải được thực hiện vào cuối năm để xác định giá vốn hàng hóa

Bất kể mạng lưới hệ thống kế toán hàng tồn kho được sử dụng là gì, đó là một thực hành thực tế tốt để thực thi kiểm kê vật lý tối thiểu một lần một năm .

Phương pháp định giá hàng tồn kho – liên tục[sửa|sửa mã nguồn]

Hệ thống liên tục ghi nhận doanh thu mỗi khi bán hàng được thực hiện. Xác định giá vốn hàng bán đòi hỏi phải lấy hàng tồn kho. Các phương pháp định giá hàng tồn kho được sử dụng phổ biến nhất trong một hệ thống liên tục là:

. Các giải pháp này tạo ra tác dụng khác nhau vì dòng ngân sách của chúng dựa trên những giả định khác nhau. Phương pháp FIFO dựa trên dòng ngân sách theo thứ tự thời hạn được thực thi, trong khi chiêu thức LIFO dựa trên dòng ngân sách theo thứ tự thời hạn đảo ngược. Phương pháp ngân sách trung bình tạo ra một luồng ngân sách dựa trên mức trung bình có trọng số của sản phẩm & hàng hóa .

Hệ thống định kỳ và liên tục[sửa|sửa mã nguồn]

Có sự khác biệt cơ bản cho kế toán và báo cáo hàng hóa giao dịch hàng tồn kho thuộc hệ thống kiểm kê định kỳ và liên tục. Để ghi lại các giao dịch mua, hệ thống định kỳ ghi nợ tài khoản Mua hàng trong khi hệ thống liên tục ghi nợ tài khoản Hàng hóa tồn kho. Để ghi lại doanh số, hệ thống vĩnh viễn yêu cầu thêm một mục để ghi nợ Chi phí hàng bán và tín dụng Hàng tồn kho. Bằng cách ghi lại giá vốn hàng bán cho mỗi lần bán, hệ thống kiểm kê liên tục đã giảm bớt nhu cầu điều chỉnh các mục và tính toán hàng hóa bán vào cuối kỳ tài chính, cả hai đều cần hệ thống kiểm kê định kỳ.

Trong mạng lưới hệ thống hàng tồn kho liên tục phải có số liệu và sự kiện thực tiễn .

Sử dụng chiêu thức phi ngân sách để định giá hàng tồn kho[sửa|sửa mã nguồn]

Trong một số trường hợp nhất định, việc định giá hàng tồn kho dựa trên chi phí là không thực tế. Nếu giá thị trường của một hàng hóa giảm xuống dưới giá mua, thì chi phí thấp hơn hoặc phương pháp định giá thị trường được khuyến nghị. Phương pháp này cho phép giảm giá trị hàng tồn kho được bù vào thu nhập của thời kỳ. Khi hàng hóa bị hư hỏng hoặc lỗi thời, và chỉ có thể được bán với giá thấp hơn giá mua, chúng nên được ghi lại theo giá trị thuần có thể thực hiện được. Giá trị thuần có thể thực hiện được là giá bán ước tính trừ đi mọi chi phí phát sinh để thanh lý hàng hóa.

Phương pháp được sử dụng để ước tính ngân sách hàng tồn kho[sửa|sửa mã nguồn]

Trong 1 số ít hoạt động giải trí kinh doanh thương mại nhất định, việc kiểm kê vật lý là không hề hoặc không thực tiễn. Trong trường hợp như vậy, cần phải ước tính ngân sách hàng tồn kho .Hai chiêu thức rất phổ cập là 1 ) – chiêu thức kiểm kê kinh doanh bán lẻ và 2 ) – chiêu thức doanh thu gộp ( hoặc tỷ suất lợi nhuận gộp ). Phương pháp kiểm kê kinh doanh bán lẻ sử dụng tỷ suất ngân sách so với giá kinh doanh nhỏ. Hàng tồn kho vật lý được định giá kinh doanh bán lẻ và được nhân với tỷ suất ngân sách ( hoặc tỷ suất Tỷ Lệ ) để xác lập ngân sách ước tính của hàng tồn kho kết thúc .Phương pháp doanh thu gộp sử dụng tỷ suất lợi nhuận gộp trung bình của những năm trước ( tức là lệch giá trừ đi giá vốn hàng bán chia cho lệch giá ). Lợi nhuận gộp năm hiện tại được ước tính bằng cách nhân doanh thu của năm hiện tại với tỷ suất lợi nhuận gộp đó, giá vốn hàng bán hiện tại được ước tính bằng cách trừ đi doanh thu gộp từ bán hàng và hàng tồn kho ở đầu cuối được ước tính bằng cách thêm ngân sách bán hàng cho sản phẩm & hàng hóa kinh doanh .

Liên kết ngoài[sửa|

sửa mã nguồn]


Có thể bạn quan tâm
© Copyright 2008 - 2016 Dịch Vụ Bách khoa Sửa Chữa Chuyên nghiệp.
Alternate Text Gọi ngay