Dịch Vụ Bách khoa Sửa Chữa Chuyên nghiệp

Đề cương học kì 1 Ngữ văn lớp 9 bài Bếp lửa của Bằng Việt – THPT Lê Hồng Phong

Bếp lửa là một bài thơ rất hay được những giáo viên ra đề trong mỗi kì thi học kì. Để chuẩn bị sẵn sàng thật tốt cho bài thi của mình, hãy cùng trung học phổ thông Lê Hồng Phong tìm hiểu thêm đề cương ôn tập học kì 1 Ngữ văn lớp 9 2019 dưới đây nhé

Đề cương học kì 1 môn văn lớp 9 bài Bếp lửa

A. KIẾN THỨC CƠ BẢN:

I. Tác giả:

Bạn đang xem: Đề cương học kì 1 Ngữ văn lớp 9 bài Bếp lửa của Bằng Việt

– Bằng Việt, tên khai sinh là Nguyễn Việt Bằng – sinh năm 1941, quê ở huyện Thạch Thất, tỉnh Hà Tây .

– Bằng Việt làm thơ từ đầu những năm 60 và thuộc thế hệ những nhà thơ trưởng thành trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ .
– Hiện nay ông là quản trị Hội liên hiệp Văn học nghệ thuật và thẩm mỹ TP. Hà Nội .

II. Tác phẩm:

1. Hoàn cảnh sáng tác:

– Bài thơ được sáng tác năm 1963, khi tác giả đang là sinh viên học ngành luật ở quốc tế .
– Bài thơ được đưa vào tập Hương cây – Bếp lửa ( 1968 ), tập thơ đầu tay của Bằng Việt và Lưu Quang Vũ .

2. Khái quát giá trị nội dung và nghệ thuật:

– Nội dung: qua hồi tưởng và suy ngẫm của người cháu đã trưởng thành, bài thơ “Bếp lửa” gợi lại những kỷ niệm đầy xúc động về người bà và tình bà cháu, đồng thời thể hiện lòng kính yêu trân trọng và biết ơn của người cháu đối với bà cũng là đối với gia đình quê hương đất nước.

– Nghệ thuật: bài thơ đã kết hợp nhuần nhuyễn giữa biểu cảm với miêu tả tự sự và bình luận. Thành công của bài thơ còn ở sự sáng tạo hình ảnh bếp lửa gắn liền với hình ảnh người bà, làm điểm tựa khơi gợi một kỷ niệm, cảm xúc, suy nghĩ về bà và tình bà cháu.

3. Mạch cảm xúc và bố cục:

– Mạch cảm xúc: Bài thơ là lời tâm sự của người cháu hiếu thảo ở phương xa gửi về người bà.
Bài thơ được mở ra với hình ảnh bếp lửa, từ đó gợi về những kỷ niệm tuổi thơ sống bên bà tám năm ròng, làm hiện lên hình ảnh bà với sự chăm sóc, lo toan, vât vả và tình yêu thương trìu mến dành cho đứa cháu. Từ những kỷ niệm, đứa cháu nay đã trưởng thành suy ngẫm và thấu hiểu về cuộc đời bà, về lẽ sống giản dị mà cao quý của bà. Cuối cùng, người cháu muốn gửi niềm mong nhớ về với bà. Mạch cảm xúc bài thơ đi từ hồi tưởng đến hiện tại, từ kỷ niệm đến suy ngẫm.

– Bố cục : 4 phần .

  • Khổ đầu: hình ảnh bếp lửa khơi nguồn cho dòng cảm xúc hồi tưởng về bà.
  • 4 khổ tiếp: những kỷ niệm ấu thơ, hình ảnh bà và bếp lửa.
  • Khổ 6: những suy nghĩ của tác giả về bà và hình ảnh cuộc đời bà.
  • Khổ cuối: nỗi nhớ của cháu về bà và bếp lửa.

Xem thêm : Soạn bài Bếp lửa của Bằng Việt

B. PHÂN TÍCH BÀI THƠ

1. Hình ảnh bếp lửa khơi nguồn cho dòng hồi tưởng, cảm xúc về bà.

Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa .
– Ba tiếng “ một bếp lửa ” được nhắc lại hai lần, trở thành điệp khúc mở đầu bài thơ với giọng điệu sâu lắng, khẳng định chắc chắn hình ảnh “ bếp lửa ” như một dấu ấn không khi nào phai mờ trong tâm tưởng của nhà thơ .
– “ Bếp lửa chờn vờn sương sớm ” là hình ảnh quen thuộc so với mỗi mái ấm gia đình Nước Ta trước kia mỗi buổi sớm mai. Hình ảnh bếp lửa thật ấm cúng giữa cái lạnh chờn vờn “ sương sớm ”, thật thân thương với bao tình cảm “ ấp iu nồng đượm ” .

  • Từ láy“chờn vờn” rất thực như gợi nhớ, gợi thương đến dáng hình bập bùng, chập chờn của ngọn lửa trong kí ức.
  • Từ láy “ấp iu” gợi bàn tay kiên nhẫn, khéo léo và tấm lòng chi chút của người nhóm lửa, lại rất chính xác với công việc nhóm bếp cụ thể.

– Rất tự nhiên, hình ảnh bếp lửa đã làm trỗi dậy tình yêu thương : “ Cháu thương bà biết mấy nắng mưa ”. Tình thương tràn trề của cháu đã được thể hiện một cách trực tiếp và đơn giản và giản dị. Đằng sau sự đơn giản và giản dị ấy là cả một tấm lòng, một sự đồng cảm đến tận cùng những khó khăn vất vả, nhọc nhằn, lam lũ của đời bà .
=> Ba câu thơ khởi đầu đã diễn đạt xúc cảm đang dâng lên cùng với những kí ức, hồi tưởng của tác giả về bếp lửa, về bà, là sự khái quát tình cảm của người cháu với cuộc sống lam lũ của người bà .

2. Hồi tưởng những kỉ niệm tuổi thơ sống bên bà:

– Bốn khổ thơ tương ứng với ba kỉ niệm của khoảng chừng thời thơ ấu của nhà thơ sống bên bà. Đó là những kỉ niệm bên bếp lửa và bên người bà kính yêu. Đoạn thơ thấm thía bởi sự tích hợp hài hòa giữa biểu cảm với miêu tả, tự sự với trữ tình .

a. Kỉ niệm tuổi thơ bên cạnh bà là cuộc sống có nhiều gian khổ, thiếu thốn nhọc nhằn:

Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói
Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi
Bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy
Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu
Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay .
– Tuổi thơ ấy có bóng đen ghê rợn của nạn đói năm 1945. Hơn hai triệu người dân Nước Ta chết đói vì chủ trương quản lý dã man của giặc Nhật, giặc Pháp. Người sống thì “ dật dờ như những bóng ma ”. Cái đói cơ hồ đã ám ảnh trong văn chương Nước Ta một thời, đói đến nỗi phải ăn đất sét ( trong văn Ngô Tất Tố ), những trăn trở về miếng ăn luôn dằn vặt trang viết của Nam Cao … Đến nỗi nhà thơ Chế Lan Viên đã từng tổng kết trong một câu thơ đau đớn : “ Cả dân tộc bản địa đói nghèo trong rơm rạ ” .
– Hình ảnh “ bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy ” cũng phần nào miêu tả được thực trạng khó khăn vất vả, thiếu thốn của mái ấm gia đình tác giả trong cái khốn khó chung của những người lao động .
– ” Đói mòn đói mỏi ”, “ khô rạc ngựa gầy ” – những cụ thể thơ đậm chất hiện thực đã tái hiện lại hình ảnh xóm làng xơ xác, tiêu điều cùng những con người tiều tụy, vật lộn mưu sinh. Không trải qua cái đói quay, đói quắt thì Bằng Việt chẳng thể viết được những câu thơ chân thực đến thế !
– Ấn tượng nhất so với cháu trong những năm đói khổ là mùi khói bếp của bà – mùi khói đã hun nhèm mắt cháu để đến giờ đây nghĩ lại “ sống mũi còn cay ”. Cái cay vì khói bếp của cậu bé bốn tuổi và cái cay bởi xúc động của người cháu đã trưởng thành khi nhớ về bà hòa quyện. Quá khứ và hiện tại đồng hiện trên những dòng thơ. Điều này cho thấy, mùi khói bếp của bà có sức ám ảnh, làm lay động cả thế chất và tâm hồn cháu .

b. Nhớ về những kỉ niệm là nhớ về bếp lửa, nhớ về tình bà trong suốt tám năm bên bà:

Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa
Tu hú kêu trên những cánh đồng xa
Tu hú kêu bà con nhớ không bà ?
Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế
Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế !
Mẹ cùng cha công tác làm việc bận không về
Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe
Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học
Tu hú ơi ! Chẳng đến ở cùng bà
Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa ?
– “ Tám năm ròng cháu sống cùng bà ” – tám năm cháu nhận được sự yêu thương, che chở, dưỡng nuôi tâm hồn từ tấm lòng của bà. Tám năm ấy, cháu sống cùng bà khó khăn vất vả, khó khăn vất vả nhưng đầy tình yêu thương .
– Kháng chiến bùng nổ, “ Mẹ cùng cha công tác làm việc bận không về ”, bà vừa là cha, lại vừa là mẹ : “ bà bảo cháu nghe – Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học ”. Chính bà là người đã nuôi dưỡng, dạy dỗ cháu nên người. Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế để nhắc nhở cháu về truyền thống cuội nguồn mái ấm gia đình, về những đau thương mất mát và cả những chiến công của dân tộc bản địa. Bà luôn bên cháu, dạy dỗ, chăm nom cho cháu lớn lên .
-> Một loạt những từ ngữ “ bà bảo ”, ” bà dạy ”, ” bà chăm ” vừa miêu tả một cách thâm thúy tình thương bát ngát, sự chăm chút hết mình của người bà dành cho cháu, vừa bộc lộ được lòng biết ơn của cháu so với bà. Tình yêu và kính trọng bà của tác giả được bộc lộ thật chân thành, thâm thúy : “ Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc ” .
– Bà và bếp lửa là chỗ dựa ý thức, là sự chăm chút, đùm bọc dành cho cháu. Bếp lửa của quê nhà, bếp lửa của tình bà lại gợi thêm một kỉ niệm tuổi thơ – kỉ niệm gắn với tiếng chim tu hú trên đồng quê mỗi độ hè về :
Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế !
Tu hú ơi ! Chẳng đến ởcùng bà

Kêu chi hoài trênnhững cánh đồng xa? 

Đoạn thơ khiến ta chạnh nhớ về “ tiếng chim tu hú ” của nữ sĩ Anh Thơ : tiếng chim tu hú gắn liền với hình ảnh cha già với những kỉ niệm về một thời thiếu nữ hoa niên, tiếng chim tu hú len lỏi khắp bài thơ như một âm thanh u ẩn, không buồn mà tiếc. Còn ở đây, tiếng chim tu hú bước vào thơ Bằng Việt như một chi tiết cụ thể để gợi nhắc nhà thơ về những kỉ niệm ấu thơ được sống bên bà. Tiếng chim tu hú – âm thanh quen thuộc của làng quê Nước Ta mỗi độ hè về, báo hiệu mùa lúa chín vàng đồng, vải chín đỏ cây. Tiếng chim như giục giã, như khắc khoải một điều gì da diết khiến lòng người trỗi dậy những hòa niệm, nhớ mong. Phải chăng đó chính là tiếng đồng vọng của đất trời để an ủi, sẻ chia với cuộc sống lam lũ của bà ? Câu hỏi tu từ “ Tu hú ơi chẳng đến ở cùng bà – Kêu chi hòa trên những cánh đồng xa ” mới thấm thía làm thế nào, xót xa làm thế nào ! Nó diễn đạt nỗi lòng da diết của tác giả khi nhớ về tuổi thơ, nhớ về bà .
=> Những câu thơ như lời đối thoại tâm tình, cháu trò chuyện với bà trong tâm tưởng, cháu trò chuyện với chim tu hú trong tình yêu thương. Và tổng thể đều là sự bộc bạch của cháu dành cho người bà kính yêu. Hình ảnh của bà, hình ảnh của bếp lửa và âm thanh của chim tu hú vang vọng trong một khoảng trống bát ngát khiến cả bài thơ nhuốm phủ sắc bàng bạc của khoảng trống hoài niệm, của tình bà cháu đẹp như trong chuyện cổ tích .

c. Đọng lại trong kỉ niệm của người cháu là:

Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi
Hàng xóm bốn bên quay trở lại lầm lụi
Đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh
Chi tiết thơ đậm chất hiện thực, thành ngữ “ cháy tàn cháy rụi ” đem đến cảm nhận về hình ảnh làng quê hoang tàn trong khói lửa của cuộc chiến tranh. Trên cái nền của sự tàn phá diệt trừ ấy là sự nuôi nấng, đùm bọc của xóm làng so với hai bà cháu. Điều khiến cháu xúc động nhất là một mình bà già nua, nhỏ bé đã chống chọi để trải qua những năm tháng gian truân, đau khổ mà không hề kêu ca, phàn nàn. Bà can đảm và mạnh mẽ, kiên cường trước hiện thực ác liệt. Đặc biệt là lời dặn cháu của bà đã làm ngời sáng vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ giàu lòng vị tha, giàu đức hi sinh :
Mày có viết thư chớ kể này kể nọ
Cứ bảo nhà vẫn được bình yên
Vậy là bà đã gồng mình gánh vác mọi lo toan để những con yên tâm công tác làm việc. Bà không chỉ là chỗ dựa cho đứa cháu thơ, là điểm tựa cho những con đang chiến đấu mà còn là hậu phương vững chãi cho cả tiền tuyến, góp thêm phần không nhỏ vào cuộc kháng chiến chung của dân tộc bản địa. Tình cảm bà cháu hòa quyện trong tình yêu quê nhà, Tổ quốc .

d. Hình ảnh người bà và những kỷ niệm năm tháng tuổi thơ luôn gắn với hình ảnh bếp lửa:

Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen
Một ngọn lửa, lòng bà luôn ủ sẵn
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng …
– Từ hình ảnh bếp lửa đơn cử ở câu trên, tác giả chuyển thành hình ảnh ngọn lửa trong lòng bà. Như thế, bếp lửa không chỉ được nhen lên bằng nguyên vật liệu củi rơm mà còn được nhen lên từ ngọn lửa của sức sống, lòng yêu thương “ luôn ủ sẵn ” trong lòng bà, của niềm tin vô cùng “ dai dẳng ”, bền chắc và bất diệt. Ngọn lửa là những kỉ niệm ấm lòng, là niềm tin thiêng liêng kì diệu nâng bước cháu trên suốt chặng đường dài. Ngọn lửa là sức sống, lòng yêu thương, niềm tin mà bà truyền cho cháu .
– Cùng với hình tượng “ ngọn lửa ”, những từ ngữ chỉ thời hạn : “ rồi sớm rồi chiều ”, những động từ “ nhen ”, “ ủ sẵn ”, “ chứa ” đã khẳng định chắc chắn ý chí, bản lĩnh sống của bà, cũng là của người phụ nữ Nước Ta giữa thời chiến. Điệp ngữ – ẩn dụ “ một ngọn lửa ” cùng cấu trúc song hành đã làm cho giọng thơ vang lên can đảm và mạnh mẽ, đầy xúc động tự hào .
=> Từ hình ảnh bếp lửa đơn cử, bài thơ đã gợi đến ngọn lửa với ý nghĩa trừu tượng, khái quát. Bà không chỉ là người nhóm lửa, giữ lửa mà còn là người truyền lửa – ngọn lửa của sự sống, niềm tin cho những thế hệ tiếp nối đuôi nhau .
Văn mẫu 9 : Bếp lửa – Bằng Việt

3. Suy ngẫm của người cháu về bà và hình ảnh bếp lửa:

Từ những hồi tưởng về kỉ niệm tuổi thơ sống bên bà, người cháu đã suy ngẫm về bà, về hình ảnh bếp lửa :
Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa
Mấy chục năm rồi, đến tận giờ đây
Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm
Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm
Nhóm niềm yêu thương khoai sắn ngọt bùi
Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ
– Nếu từ đầu bài thơ, hình ảnh bà và bếp lửa song hành thì đến đây hòa vào làm một, nhòe lẫn, tỏa sáng bên nhau .
– Cụm từ chỉ thời hạn “ đời bà ”, “ Mấy chục năm ”, từ láy tượng hình “ lận đận ”, hình ảnh ẩn dụ “ nắng mưa ” -> diễn đạt cảm nhận của nhà thơ về cuộc sống gian truân, khó khăn vất vả và sự tần tảo, đức hi sinh, chịu thương, chịu khó của bà. Tình thương yêu tác giả dành cho bà được bộc lộ trong từng câu chữ. Tình cảm ấy giản dị và đơn giản, chân thành mà thật sâu nặng thiết tha .
– Suốt cuộc sống, bà luôn chăm chút cho cháu cả về vật chất và ý thức để cháu lớn lên. Bà là người nhóm lửa, cũng là người luôn giữ cho ngọn lửa luôn ấm nóng, tỏa sáng trong mái ấm gia đình .
– Điệp ngữ “ nhóm ” được nhắc lại bốn lần với những ý nghĩa đa dạng chủng loại, gợi nhiều liên tưởng. Từ hành vi, bà đã nhóm dậy những gì thiêng liêng, cao quý nhất của con người. Bà nhóm bếp lửa mỗi sớm mai là nhóm lên :
Tình yêu thương
Niềm vui sưởi ấm
Sự san sẻ tình làng nghĩa xóm .
Những tâm tình, ước vọng của tuổi thơ
-> Nhờ ngọn lửa mà bà “ ủ ”, bà “ nhen ”, bà “ giữ ”, cháu biết cách sống ân tình, thủy chung, biết mở lòng ra với mọi người xung quanh, biết sẻ chia, gắn bó với xóm làng. Người cháu yêu bà, nhờ hiểu bà mà thêm hiểu, thêm yêu dân tộc bản địa mình, nhân dân mình .
– Trong tâm lý nhà thơ, bếp lửa và bà là những gì tuy thật bình dị, tuy nhiên ẩn giấu điều cao quý thiêng liêng. Cảm xúc dâng trào, tác giả đã phải thốt lên :
“ Ôi kì quặc và thiêng liêng – bếp lửa ! ” .
Hình ảnh bà và hình ảnh bếp lửa sáng đẹp lộng lẫy trong tâm hồn nhà thơ .

4. Nỗi nhớ bà, nhớ quê hương khôn nguôi, da diết.

Giờ cháu đã đi xa, có ngọn khói trăm tàu ,
Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả ,
Nhưng vẫn chẳng khi nào quên nhắc nhở :
– Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa ?
Điệp từ “ trăm ” mở ra một quốc tế to lớn với bao điều mới lạ. Tuổi thơ đã lùi xa, đứa cháu nhỏ năm xưa giờ đã lớn khôn, đã được chắp cánh bay cao, bay xa đến những chân trời cao rộng có “ khói trăm tàu ”, ” lửa trăm nhà ”, ” niềm vui trăm ngả ”. Tuy thế, cháu vẫn khôn nguôi nhớ về bà và bếp lửa quê nhà, nhớ về góc bếp, nơi nắng mưa hai bà cháu có nhau. Cháu sẽ không khi nào quên và không thể nào quên được vì đó chính là nguồn cội, là nơi mà tuổi thơ của cháu được nuôi dưỡng để lớn lên từ đó. Bà và quê nhà yêu dấu là điểm tựa, là chỗ dựa niềm tin vững chãi cho cháu trên mỗi bước đường đời .
=> Từ những suy ngẫm của người cháu, bài thơ bộc lộ một triết lí thâm thúy : Những gì thân thương nhất của tuổi thơ mỗi người đều có sức tỏa sáng, nâng bước con người trong suốt hành trình dài dài rộng của cuộc sống. Tình yêu quốc gia bắt nguồn từ lòng yêu quý ông bà, cha mẹ, từ những gì thân thiện và bình dị nhất .
— — — –

Các em vừa tham khảo qua đề cương ôn tập học kì 1 môn văn lớp 9 2019/2020 chi tiết nhất được THPT Lê Hồng Phong biên soạn. Hy vọng sẽ giúp các em hoàn thành tốt bài làm của mình trong kì thi học kì 1.

Tổng hợp đề cương ôn tập học kì 1 Ngữ văn 9 bài Bếp lửa gồm có những kỹ năng và kiến thức cần ghi nhớ để ôn tập cho kì thi học kì tại đây
Đăng bởi : trung học phổ thông Lê Hồng Phong
Chuyên mục : Giáo dục đào tạo

Bản quyền bài viết thuộc THPT Lê Hồng Phong. Mọi hành vi sao chép đều là gian lận!

Tác giả : https://dichvubachkhoa.vn – Trường Lê Hồng Phong Nguồn : https://dichvubachkhoa.vn/de-cuong-hoc-ki-1-ngu-van-lop-9-bai-bep-lua-cua-bang-viet/