Dịch Vụ Bách khoa Sửa Chữa Chuyên nghiệp

Sơ đồ tư duy bài Làng (Kim Lân) (năm 2022) dễ nhớ – Ngữ văn lớp 9

Tailieumoi.vn xin giới thiệu đến các quý thầy cô, các em học sinh lớp 9 tài liệu sơ đồ tư duy bài Làng hay nhất, gồm 9 trang đầy đủ những nét chính về văn bản như:
Các nội dung được Giáo viên nhiều năm kinh nghiệm biên soạn chi tiết giúp học sinh dễ dàng hệ thống hóa kiến thức từ đó dễ dàng nắm vững được nội dung tác phẩm Làng Ngữ văn lớp 9.
Mời quí bạn đọc tải xuống để xem đầy đủ tài liệu Sơ đồ tư duy bài Làng dễ nhớ, ngắn nhất – Ngữ văn lớp 9:

LÀNG

Bài giảng: Làng

A. Sơ đồ tư duy Làng

B. Tìm hiểu Làng

I. Tác giả

– Kim Lân ( 1920 – 2007 ) tên thật là Nguyễn Văn Tài, quê ở huyện Từ Sơn – tỉnh TP Bắc Ninh .
– Ông là một nhà văn chuyên viết truyện ngắn. Ông thường viết về nông thôn và người nông dân .
– Tác phẩm chính : Nên vợ nên chồng ( tập truyện ngắn, 1955 ), Con chó xấu xí ( tập truyện ngắn, 1962 ) .
– Năm 2001, Kim Lân được Tặng Ngay phần thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật và thẩm mỹ .
– Phong cách thẩm mỹ và nghệ thuật : Kim Lân có một lối viết rất tự nhiên, chậm rãi, nhẹ nhàng, hóm hỉnh và giàu xúc cảm ; cách miêu tả rất thân thiện, chân thực. Đặc biệt ông có biệt tài nghiên cứu và phân tích tâm lí nhân vật .

II. Tìm hiểu chung tác phẩm

1. Thể loại : Truyện ngắn
2. Hoàn cảnh sáng tác
Truyện ngắn Làng được viết trong thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp và đăng trên Tạp chí văn nghệ năm 1948 .
3. Tóm tắt truyện :
Truyện kể về ông Hai rất yêu làng, yêu nước. Khi Pháp quay trở lại xâm lược, ông phải rời làng đi tản cư nên rất nhớ làng, vì vậy ông thường ra phòng thông tin đến nghe tin tức kháng chiến. Ở khu tán cư, ông nghe được tin làng Chợ Dầu là làng Việt gian theo Tây. Ông rất bàng hoàng, xấu hổ, lo ngại sợ tin này loan ra thì người dân làng Dầu ở đây biết sống ra làm sao. Suốt mấy ngày trời ông chẳng dám đi đâu. Rồi tin này ai cũng biết. Nhà ông và những người dân làng Dầu đều bị xa lánh và khinh bỉ. Trong thực trạng bế tắc, vô vọng đó ông dù yêu làng nhưng vẫn không ưng ý với hành vi theo Tây của làng. Ông vẫn quyết giữ trọn lòng trung thành với chủ với Cách mạng, với kháng chiến và ông chỉ biết tâm sự điều đó với con trai của mình. Cuối cùng, ông quản trị xã của làng Chợ Dầu lên khu tản cư để cải chính tin làng Dầu theo Tây. Ông rất vui đi khoe tin với toàn bộ mọi người. Ông nhủ lòng càng phải yêu làng, yêu nước hơn nữa .
4. Bố cục : 3 phần

– Phần 1: (Từ đầu đến… múa cả lên vui quá): Tâm trạng của ông Hai trước khi nghe tin làng chợ Dầu theo giặc.

– Phần 2: (Tiếp đến… đôi phần): Tâm trạng ông Hai khi nghe tin làng theo giặc.

– Phần 3 : ( Còn lại ) : Tâm trạng ông Hai khi nghe tin cải chính .
5. Giá trị nội dung
Tác phẩm đề cập tới tình yêu làng quê và lòng yêu nước cùng ý thức kháng chiến của người nông dân phải rời làng đi tản cư khi cuộc kháng chiến chống Pháp đang diễn ra được biểu lộ một cách chân thực, thâm thúy và cảm động ở nhân vật ông Hai .
6. Giá trị nghệ thuật và thẩm mỹ
Tác giả đã rất thành công xuất sắc trong việc tạo dựng trường hợp thắt nút và cởi nút câu truyện rất tự nhiên và thẩm mỹ và nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật qua hành vi tâm lý và lời nói, từ đó tạo ra được một tác phẩm tuyệt đối .

III. Dàn ý phân tích tác phẩm

1. Hoàn cảnh đặc biệt của ông Hai

– Xuất thân là một người nông dân quanh năm gắn bó với lũy tre làng .
– Một người yêu làng nhưng phải rời làng đi tản cư .

2. Diễn biến tâm trạng của nhân vật ông Hai

a. Người nông dân mang tình yêu làng tha thiết
– Ông tự hào, hãnh diện về làng và kể nó với niềm mê hồn, náo nức đến lạ lùng :
+ Trước cách mạng tháng tám : Ông khoe con đường làng lát toàn đá xanh, trời mưa đi chẳng lấm chân ; ông khoe sinh phần của một vị quan tổng đốc trong làng .
+ Khi kháng chiến bùng nổ : Ông khoe về một làng quê đi theo kháng chiến làm cách mạng ; ông kể một cách rành rọt những hộ, những ụ, những giao thông vận tải hầm hào, ….
– Khi buộc ông phải tảm cư, ông Hai đã rất nhớ về làng :
+ Ông liên tục chạy sang nhà bác Thứ để kể lể đủ thứ chuyện về làng, để vơi đi cái nỗi nhớ làng .
+ Ông kể cho sướng cái miệng, cho vơi cái lòng mà không cần biết người nghe có thích hay không .
+ Ông tiếp tục theo dõi tình hình của làng cũng như tình hình chiến sự .
b. Khi nghe tin làng chợ Dầu theo giặc :
– Ban đầu, ông chết lặng vì đau đớn, tủi hổ như không hề điều khiển và tinh chỉnh được khung hình của mình : “ Có ông lão nghẹn đắng lại, da mặt tê rân rân. Ông lão lặng hẳn đi, tưởng như không thở được ” .
– Cái tin ấy quá giật mình và khi trấn tĩnh lại, ông còn cố không tin vào cái tin dữ ấy. Nhưng rồi những người đi tản cư kể rành rọt quá, lại chứng minh và khẳng định họ “ vừa ở dưới ấy lên ”, “ mắt thấy tai nghe ”, làm ông không hề không tin .
– Sau tích tắc ấy, tổng thể có vẻ như sụp đổ, tâm lý ông bị ám ảnh, lo ngại, day dứt : Ông vờ lảng ra chỗ khác, rồi về thẳng nhà. Nghe tiếng chửi bọn Việt gian, ông “ cúi gằm mặt mà đi ” .
– Về đến nhà ông nằm vật ra giường, nhìn lũ con, tủi thân mà “ nước mắt ông cứ tràn ra ” .
– Muôn vàn nỗi lo ùa về trông tâm lý ông :
+ Ông lo cho số phận của những đứa con rồi sẽ bị khinh bỉ, hắt hủi vì là trẻ con làng Việt gian : “ Chúng nó cũng là trẻ con làng Việt gian đấy ư ? Chúng nó cũng bị người ta rẻ rúng, hắt hủi đấy ư ? Khốn nạn, bằng ấy tuổi đầu ” .
+ Ông lo cho bao nhiêu người tản cư làng ông sẽ bị khinh, tẩy chay, thù hằn, ghê tởm : “ Chao ôi ! Cực nhục chưa, cả làng Việt gian ! … Suốt cái nước Nước Ta này người ta ghê tởm, người ta thù hằn cái giống Việt gian bán nước … ” .
+ Ông lo cho tương lai của mái ấm gia đình rồi sẽ đi đâu, về đâu, làm ăn sinh sống thế nào : “ Rồi đây biết làm ăn, kinh doanh làm thế nào ? Ai người ta chứa ” .
– Trong trạng thái khủng hoảng cục bộ, tức giận ông nắm chặt hai tay mà rít : “ chúng bay ăn miếng cơm hay miếng gì vào mồm mà đi làm cái giống Việt gian bán nước để rồi nhục nhã thế này ”. Niềm tin bị phảm bội, những mối hoài nghi bùng lên và giằng xé trong ông : “ ông kiểm điểm từng người trong óc ” .
– Mấy ngày sau đó, ông hoang mang lo lắng, sợ hãi khi phải đối lập với đời sống xung quanh : Ông không dám đi đâu, chỉ quẩn quanh ở nhà và nghe ngóng tình hình ngoài. Ông không dám trò chuyện với vợ, hay ông không dám nhìn thẳng vào trong thực tiễn phũ phàng đang làm ông đớn đau .
– Tình yêu làng quê và niềm tin yêu nước đã dẫn đến cuộc xung đột nội tâm ở ông Hai :
+ Ông thoáng có ý nghĩ “ hay là quay trở lại làng ” – rồi ông lại gạt bỏ ý nghĩ về làng bởi “ làng đã theo Tây, về làng là rời bỏ kháng chiến, bỏ cụ Hồ, là cam chịu quay trở lại kiếp sống nô lệ ” .
+ Buộc phải lựa chọn một, ông đã tự xác lập một cách đau đớn nhưng dứt khoát “ Làng thì yêu thật nhưng làng theo Tây rồi thì phải thù ”. Nhưng dù đã dứt khoát như vậy, ông vẫn không hề dứt bỏ tình cảm với nơi mà ông đã sinh ra, lớn lên và gắn bó đến gần hết cuộc sống. Bởi vậy, ông muốn được tâm sự, như để phân bua, để minh oan, cởi bỏ nỗi lòng .
+ Ông rút hết nỗi lòng vào những lời thủ thỉ, tâm sự với đứa con ngây thơ, bé nhỏ .
⇒ Dưới hình thức trò chuyện, tâm sự với đứa con, nhưng thực ra là lời tự vấn, để tự minh oan và khẳng định chắc chắn tấm lòng thủy chung của mình với làng, kháng chiến, cách mạng ; để làm vơi đi phần nào những khổ tâm đã dằn vặt ông bấy lâu nay .

3. Tâm trạng ông Hai khi nghe tin cải chính.

– Thái độ ông Hai biến hóa hẳn :
+ “ cái mặt buồn thiu mọi ngày bỗng vui tươi, rạng rỡ hẳn lên ” .
+ Mồm bỏm bẻm nhai trầu, mắt hấp háy .
+ Chạy đi khoe khắp nơi về làng của mình .

⇒ Vui mừng tột độ, tự hào, hãnh diện khi làng không theo giặc, cũng đồng thời thấy được tình yêu làng, yêu nước của người nông dân như ông Hai.

IV. Bài phân tích

Với người nông dân Nước Ta, có lẽ rằng không có thứ tình cảm nào tự nhiên hơn tình yêu quốc gia. Tình yêu ấy nhẹ nhàng thấm vào máu thịt qua tình cảm dành cho người thân trong gia đình, làng xóm, quê nhà. Nó tưởng như xa xôi nhưng lại thật thân mật, đơn giản và giản dị. Thấu hiểu những điều đó, nhà văn Kim Lân đã có một thiên truyện thật hay viết về tình yêu quê nhà quốc gia của người nông dân : “ Làng ”. Diễn biến tâm trạng nhân vật chính của tác phẩm – nhân vật ông Hai là một thành công xuất sắc lớn của tác giả khi viết về đề tài yêu nước .
Ông Hai yêu cái làng chợ Dầu của ông thật đậm đà, tha thiết, yêu đến nỗi đi đâu ông cũng khoe về cái làng của ông. Kể về làng Chợ Dầu, ông nói một cách say sưa mà không cần biết người nghe có chú ý quan tâm hay không. Ông khoe làng ông có nhà ngói san sát, sầm uất, đường trong làng lát toàn bằng đá xanh, trời mưa đi từ đầu làng đến cuối xóm bùn không dính đến gót chân. Tháng 5 ngày 10 phơi rơm và thóc tốt hạng sang, không có lấy một hạt thóc đất. Ông còn tự hào về cái sinh phần của tổng đốc làng ông. Ông tự hào, vinh dự vì làng mình có cái nét độc lạ, có bề dày lịch sử vẻ vang. Nhưng khi cách mạng thành công xuất sắc, nó đã giúp ông hiểu được sự sai lầm đáng tiếc của mình. Và từ đó, mỗi khi khoe về làng là ông khoe về những ngày khởi nghĩa dồn dập những buổi tập quân sự chiến lược có cụ râu tóc bạc phơ cũng vác gậy đi tập. Ông còn khoe cả những hố, những ụ, những hào, … lắm khu công trình không để đâu hết. Chính cái trường hợp ngặt nghèo khi giặc tràn vào làng, ông buộc phải xa làng. Xa làng ông mang theo toàn bộ nỗi niềm thương nhớ. Vì vậy, nên lúc tản cư, ông khổ tâm day dứt khôn nguôi. Quả thật, cuộc sống và số phận của ông Hai thật sự gắn bó với buồn vui của làng. Tự hào và yêu nơi “ chôn rau cắt rốn ” của mình trở thành một truyền thống cuội nguồn và tâm lí chung của mọi người nông dân thời giờ đây. Có thể tình yêu nước của họ bắt nguồn từ cái đơn thuần : cây đa, giếng nước, sân đình … và nâng cao lên đó chính là : tình yêu quốc gia. Tới đây, là chợt nhớ đến câu nói bất hủ của nhà văn I-li-a Ê-ren-bua : lòng yêu nhà, yêu làng xóm, yêu miền quê trở nên lòng yêu Tổ quốc .
Tình yêu làng của ông Hai càng được biểu lộ rõ qua những ngày ông đi tản cư. Ông luôn nhớ về làng những ngày ở vùng tản cư, ông yêu làng, yêu đường làng, ngõ xóm, yêu nhà ngói, sân gạch. Ông yêu toàn bộ những gì thân thiện, độc lạ của làng. Ông yêu những giờ phút niềm hạnh phúc được cùng bạn bè đào đường, đắp ụ, xẻ hào, khuân đá. Từ tình yêu làng nồng cháy ấy, truyền thống cuội nguồn ấy, ông đến với cách mạng từ khi nào, từ khi nào mà chính ông cũng không hay biết. Ông tham gia tản cư vì tản cư cũng là tham gia kháng chiến. Ở vùng tản cư, ông luôn dõi theo tin tức của làng, ông hay đến phòng thông tin nghe đọc báo. Hôm ấy, ông nghe được bao nhiêu là tin hay : “ Một em nhỏ xung phong bơi ra giữa hồ Hoàn Kiếm cắm quốc kì lên Tháp Rùa ”, “ Một anh trung đội trưởng sau khi giết được bảy tên giặc đã tự sát bằng quả lựu đạn sau cuối ” ; “ Đội nữ du kích Trưng Trắc giả làm người đi mua hàng đã bắt được một tên quan hai bốt Thao ngay giữa chợ. Chao ôi ! Bao nhiêu là tin hay, ruột gan ông lão cứ náo nức cả lên ”. Đến đâu, ông cũng thấy hãnh diện, ông hay khoe về làng, về niềm tin kháng chiến của làng. Sau Cách mạng, ông khoe về làng cũng khác, ông không còn tự hào vì cái sinh phần cụ Thượng nữa mà thấy thù nó. Cách mạng tháng Tám thành công xuất sắc đã đưa đến cho người nông dân những nhận thức mới, tâm lý mới về làng. Họ đã biết nhận thức được rằng cái gì đúng, cái gì sai .
Thế nhưng, niềm vui chưa kịp bày tỏ thì một cú sốc lớn đã đến với ông Hai : đó là cái tin làng Chợ Dầu là Việt gian theo Tây. Có thể nói, dưới ảnh hưởng tác động của trường hợp, vấn đề khi nghe tin làng Chợ Dầu theo giặc, tâm ý nhân vật ông Hai đã có những diễn biến phức tạp và nhà văn đã trực tiếp nhập vai vào nhân vật để nói bằng lời nói nhân vật, diễn đạt sự giằng xé trong quốc tế nội tâm với những xích míc, xung đột nóng bức, kinh hoàng. Cũng như biết bao người dân quê khác, ông Hai gắn bó sâu lặng với nơi chôn rau cắt rốn của mình – làng chợ Dầu. Tình yêu ấy của ông thật đặc biệt quan trọng, bộc lộ của nét tâm lí đó là luôn tự hào và thích khoe về làng. Nhưng có một sự kiện giật mình đã xảy ra với ông, từ phòng thông tin bước ra đang rất phấn khởi, náo nức vì những tin vui của kháng chiến, gặp người tản cư, nghe họ nhắc tới tên làng, ông Hai quay lại, lắp bắp hỏi, hy vọng được nghe những tin tốt đẹp về làng, nào ngờ lại hay tin : cả làng chợ Dầu theo giặc. Trước tin dữ ấy, ông Hai sững sờ chết lặng “ Cổ ông lão nghẹn ắng hẳn lại, da mặt tê rân rân. Ông lão lặng đi, tưởng như không thở được ”. Từ niềm vui, niềm tin hy vọng, ông Hai rơi xuống vực thẳm đau buồn, xót xa, vô vọng. Ông cố gắng nỗ lực trấn tĩnh bản thân và tìm cách lảng ra về, muốn che giấu đi tâm trạng ấy nhưng nỗi tủi hổ, bẽ bàng, lo ngại khiến ông “ cúi gằm mặt mà đi ”, còn văng vẳng tiếng chửi “ giống Việt gian bán nước ”. Lòng ông lão như bị giằng xé, có cái gì như đang bóp nghẹt quả tim ông khiến ông khó thở, đau đớn tột cùng. Rồi ông lại tự mình trò chuyện với mình, lúc thì ông bảo không phải và lấy cớ để thanh minh cho chuyện ấy. Rồi ông lại thấy điều đó là thực sự thì phải chăng hơn : “ Không có lửa làm thế nào có khói. Ai hơi đâu người ta bịa tạo ra những chuyện ấy làm gì ? Chao ôi ! Cực nhục chưa ? Khắp cái nước Nước Ta này người ta ghê tởm cái giống Việt gian bán nước … ”. Rồi lòng ông lại quặn đau, nội tâm ông luôn luôn đổi khác, luôn có hai quan điểm trái chiều nhau. Rồi ông lại trò chuyện với đứa con út để vơi đi đôi phần, ông hỏi đứa con ông ủng hộ làng hay Cụ Hồ, nghe nó ủng hộ Cụ Hồ Chí Minh, lòng ông như được vun đắp phần nào, càng vững trí hơn. Cái lòng bố con ông như vậy đấy, đâu dám đơn sai : “ Các chiến sỹ biết cho bố con ông, Cụ Hồ trên đầu trên cổ xét soi cho bố con ông ”. Ông rơi vào tình thế tiến thoái lưỡng nan khi biết ở vùng tản cư không ai chứa những người làng Chợ Dầu nữa để đi đến một quyết định hành động cao đẹp. “ Làng thì yêu thật nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù ”. Đó là một hành vi cao đẹp của ông Hai – một người dân yêu nước. Cuối cùng, ông đã chọn đi theo Cụ Hồ theo lí tưởng cách mạng, ở đây ta thấy được sự hòa quyện giữa tình yêu làng với tình yêu nước. Đó là bước chuyển biến mới trong tư tưởng tình cảm của người nông dân Nước Ta buổi giao thời mới – cũ .
Và rồi tin làng ông Việt gian theo Tây đã được cải chính, ông lại rơi vào sự hả hê sung sướng, niềm hạnh phúc vô bờ. Ông lại được khoe về làng, được tự hào về làng thậm chí còn ông khoe cả cái nhà ông bị Tây đốt cháy, ông kể tỉ mỉ, cụ thể cho bác Thứ nghe về trận đánh hôm Tây nó vào khủng bố, chúng nó cả bao nhiêu thằng tất cả chúng ta đánh được bao nhiêu, làng ông chống đỡ, phòng ngự ra làm sao, như chính ông lão vừa dự trận đánh vậy. Đến đây, ta thấy được nội tâm, tâm trạng ông Hai đã có sự đổi khác rõ ràng, từ trường hợp biến hóa mà con người cũng thay đổi, sự đau đớn tột cùng giờ đã chuyển sang hả hê sung sướng. Qua đây ta thấy được tầm quan trọng của nghệ thuật và thẩm mỹ thiết kế xây dựng tình, huống truyện và miêu tả nội tâm nhân vật so với một tác phẩm văn học .
Bằng sự am hiểu thâm thúy về đời sống ý thức của những người nông dân cùng với năng lực nghệ thuật và thẩm mỹ xuất sắc, nhà văn Kim Lân trong truyện ngắn Làng đã kiến thiết xây dựng thành công xuất sắc trường hợp truyện mang tính thử thách, qua đó tình cảm của người nông dân với quốc gia, với cách mạng được thể hiện rõ nét hơn khi nào hết. Thông qua việc kiến thiết xây dựng nhân vật ông Hai, tác giả Kim Lân đã miêu tả chân thực sự chuyển biến trong tình cảm của người nông dân, đồng thời truyện ngắn cũng giúp tất cả chúng ta tưởng tượng được một thời kì cách mạng sôi sục của quân dân ta, trong đó toàn thể dân tộc bản địa đều nhất trí, đồng lòng đoàn kết, đi theo sự dẫn dắt, chỉ huy của Đảng, của Bác Hồ .

V. Một số lời bình về tác phẩm

1. Đó là nhân vật lão Hai, người nông dân bần hàn ấy có những nét rất mới không giống bất kể người nông dân nào trong những truyện ngắn truyện dài trước kia. Đó là người nông dân vừa được cách mạng giải phóng. Cách mạng đã đem lại quyền sống, quyền làm người, quyền tự do, bình đẳng với mọi người. Không thấy còn bóng hình bọn cường hào, ác bá nào trong tâm lý lão. Không còn bóng hình thấp hèn, cắn răng cam chịu trước những bất công, tàn khốc đã vùi dập người nông dân trước kia. Trong truyên “ Làng ” lão Hai là một người nông dân hồ hởi, phấn khởi, tự tin, tự biết vị trí mình, nghĩa vụ và trách nhiệm mình trong mọi việc làm của xóm làng, của quốc gia. Lão là nông dân tiên phong chăm sóc đến thời sự, chính trị, đến những tin tức có tương quan đến thời vận của quốc gia, người mà không ngày nào không ra phòng thông tin nghe ngóng tin tức và mừng thầm khoe với mọi người rằng “ chuyến này Đác-giăng-li-ơ còn là phải đi đi về về ạ … ”. Phải nói đây là một chuyển biến rất quan trọng về con người nông dân sau Cách mạng .
( Theo Kim Lân, Nghĩ về nghề văn, Hà Minh Đức ghi, trong Nhà văn nói về tác phẩm )

Sơ đồ tư duy Phân tích truyện ngắn Làng

Dàn ý chi tiết Phân tích truyện ngắn Làng

1. Mở bài: Giới thiệu sơ lược về tác giả, tác phẩm:

– Kim Lân thuộc lớp những nhà văn đã thành danh từ trước Cách mạng Tháng 8 – 1945 với những truyện ngắn nổi tiếng về vẻ đẹp văn hoá xứ Kinh Bắc, gắn bó với thôn quê, từ lâu đã am hiểu người nông dân .
– Làng ( 1948 ) đã bộc lộ thành công xuất sắc vẻ đẹp tâm hồn của người nông dân Nước Ta với làng, với nước trong những ngày đầu kháng chiến chống thực dân Pháp .

2. Thân bài

* Khái quát về tác phẩm

– Hoàn cảnh sáng tác : Truyện ngắn “ Làng ” được viết năm 1948 – thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp .
– Nội dung diễn biến : Ông Hai là một người vô cùng yêu quý làng quê mình cho nên vì thế khi Pháp đến đánh chiếm ông quyết định hành động ở lại làng làm du kích, làm người trẻ tuổi chống giặc dù tuổi đã cao. Nhưng vì thực trạng mái ấm gia đình ông buộc phải tản cư lên thị xã Hiệp Hòa. Thế rồi một hôm ông nghe tin làng Chợ Dầu theo giặc, khi đó ông đã vô cùng đau khổ. Nhưng cho đến khi nghe tin cải chính về làng ông vui sướng đến mức đi khoe nhà ông bị đốt hết trong niềm tự hào .

* Luận điểm 1: Phân tích tình huống truyện

– Tình huống : Ông Hai luôn yêu và tự hào về làng của mình, nay nghe tin làng chợ Dầu theo giặc
– Tình huống đối nghịch với tình cảm tự hào mãnh liệt về làng Chợ Dầu của ông Hai, khác với tâm lý về một làng quê “ niềm tin cách mạng lắm ” của ông .
– Ý nghĩa của trường hợp : Tình huống khiến diễn biến tâm trạng nhân vật biến hóa can đảm và mạnh mẽ, thử thách lòng yêu làng và yêu nước của nhân vật ông Hai .

* Luận điểm 2: Tình yêu làng, yêu nước ở nhân vật ông Hai

– Tình yêu làng của ông Hai trước Cách mạng
+ Ông khoe về làng : giàu và đẹp, lát đá xanh, có nhà ngói san sát sầm uất như tỉnh, trào lưu cách mạng diễn ra sôi sục, chòi phát thanh cao bằng ngọn tre …
+ Ông tự hào về làng mình từ cơ sở vật chất cho tới cái sinh phần của tổng đốc làng ông, vinh dự vì làng có bề dày lịch sử vẻ vang .
– Tình yêu làng của ông Hai sau Cách mạng .
+ Ông khoe về ý thức cách mạng của làng ông, ngay cả cụ râu tóc bạc phơ cũng vác gậy đi tập, ông khoe những hố, ụ và hào .
– Diễn biến tâm trạng ông Hai :
+ Trước khi nghe tin làng Chợ Dầu theo giặc .
+ Khi nghe tin làng Chợ Dầu theo giặc .
+ Khi biết tin làng chợ Dầu theo Tây được cải chính .
– Đặc sắc nghệ thuật và thẩm mỹ :
+ Ngôn ngữ đậm tính khẩu ngữ và lời ăn lời nói của người nông dân
+ Lời nói trần thuật có sự thống nhất về sắc thái, giọng điệu theo lời nhân vật ông Hai ( ngôi thứ 3 )
+ Ngôn ngữ nhân vật của ông Hai vừa mang nét chung của người nông dân nhưng cũng mang điểm riêng không liên quan gì đến nhau đậm đậm cá tính của nhân vật nên rất sinh động
+ Giọng điệu trần thuật tự nhiên thân thiện đôi lúc dí dỏm của nhân vật .
+ Miêu tả rất đơn cử, quyến rũ những diễn biến nội tâm qua ý nghĩ, hành vi, ngôn từ đối thoại và độc thoại .

3. Kết bài

– Tác giả thành công xuất sắc trong việc kiến thiết xây dựng trường hợp truyện, trong thẩm mỹ và nghệ thuật miêu tả tâm ý nhân vật và ngôn từ nhân vật .
– Những rực rỡ về nghệ thuật và thẩm mỹ góp thêm phần biểu lộ tư tưởng của tác phẩm : tình yêu làng, lòng yêu nước, niềm tin kháng chiến của người nông dân trong thực trạng tản cư .
– Khẳng định Kim Lân là cây bút truyện ngắn xuất sắc và có sức lay động tới trái tim người đọc .

Bài văn mẫu Phân tích truyện ngắn Làng – mẫu 1

Kim Lân là nhà văn tân tiến Nước Ta. Ông có một vốn sống vô cùng thâm thúy về nông thôn Nước Ta. Những thú chơi dân dã mang cốt cách ” phong phú đồng ruộng ” như thả diều, chọi gà, nuôi chó săn, thả chim bồ câu, chơi núi non bộ, gánh hát chèo, trẩy hội mùa xuân, v.v… được ông viết rất hay và cho ta nhiều mê hoặc. Ông là một trong những cây bút truyện ngắn xuất sắc mang hương đồng gió nội qua 2 tác phẩm : Con chó xấu xí và Nên vợ nên chồng. Viết về đề tài nông dân và kháng chiến, truyện Làng của Kim Lân thành công xuất sắc hơn cả. Nhân vật chính của truyện là ông Hai đã để lại trong lòng em nhiều ấn tượng thâm thúy, xinh xắn. Ông Hai là một lão nông, cần mẫn chất phác, giàu lòng yêu quê nhà quốc gia. Ông gắn bó với cách mạng, quyết tâm đi theo kháng chiến, trung thành với chủ tuyệt đối vào sự chỉ huy sáng suốt của Cụ Hồ Chí Minh. Cũng như hàng triệu người nông dân khác, ông Hai là một con người chịu khó chất phác rất đáng yêu. Ông hay lam hay làm ” ở quê ông làm suốt ngày, không mấy lúc chịu ngơi chân ngơi tay “. Đi cày, đi cuốc, gánh phân, tát nước, đan rổ, đan rá, … ông đều làm khéo, làm giỏi .
Ông Hai đã sống qua hai chính sách, trước kia ông mù chữ, sau nhờ cách mạng mà ông được học ” tầm trung học vụ “, biết đánh vần. Kim Lân đã kể rất hay về tình yêu làng của ông Hai. ” Làng ta cảnh sắc hữu tình ” … không yêu làng sao được ? Cái làng Chợ Dầu vốn là nơi chôn nhau cắt rốn của ông, ” nhà ngói san sát, sầm uất như tỉnh “, ” đường trong làng toàn lát đá xanh, trời mưa trời gió … bùn không dính đến gót chân ” … Trước kia, ông Hai rất lấy làm tự hào về cái sinh phần quan tổng đốc làng ông. Đi đâu ông cũng khoe, gặp ai ông cũng khoe ” cái dinh cơ cụ thượng làng tôi có lăm lắm là của. Vườn hoa hoa lá cây cảnh nom như động ấy … “. Ông yêu làng Chợ Dầu với tổng thể sự hồn nhiên, ngây thơ của người ít học. Ông đã mang thương tật trên mình khi bị bắt làm phu xây cái lăng ấy ! Đáng lẽ ông không nên khoe, không nên ” hả hê cả lòng “. Nỗi đau, nỗi nhục của một đời người nói làm gì nữa cho thêm phần nhục nhã ? Nhắc lại chuyện xưa, cũ ấy của ông Hai, Kim Lân đã viết với một giọng văn châm biếm nhẹ nhàng. Từ ngày cách mạng thành công xuất sắc, ông Hai vẫn yêu làng, yêu với tổng thể tình cảm trong sáng, chân thành. Ông đã có nhiều đổi khác về mặt nhận thức. Ông không khi nào còn ” đả động ” đến ” cái sinh phần ” ấy nữa, ông biết ” thù nó ” đến tận tim gan. Ông yêu cái làng Chợ Dầu kháng chiến với tổng thể niềm tự tôn cao quý ! Cái làng Chợ Dầu của ông ” mà cái phòng thông tin tuyên truyền sáng sủa thoáng rộng nhất vùng, chòi phát thanh thì cao bằng ngọn tre, chiều chiều loa gọi cả làng đều nghe thấy “. Ông khoe làng mình ” những ngày khởi nghĩa rầm rập “, những cụ phụ lão râu tóc bạc phơ vác gậy đi tập quân sự chiến lược, ” nhất là những hố, những ụ, những giao thông hào của làng ông thì lắm khu công trình không để đâu hết ! ” .
Có thể nói, từ ngày đi tản cư, phải xa làng thân yêu, bao nỗi buồn vui của quá khứ và hiện tại chứa chất trong lòng ông bao tâm sự. Dưới ngòi bút của Kim Lân, ông Hai, một người nông dân yêu làng, yêu nước, hiền lành, chất phác … hiện lên một cách chân thực, ta thấy thân mật, bình dị và đáng yêu lắm. Tình yêu làng, tình yêu quê nhà là một trong những tình cảm thâm thúy nhất của người dân cày Nước Ta. Quyết tâm kháng chiến, tin cậy vào sự chỉ huy sáng suốt của Hồ quản trị cũng là một nét rất đẹp trong tư tưởng, tình cảm của ông Hai. Kháng chiến thì khắp nơi ” Ruộng rẫy là mặt trận. Cuốc cày là vũ khí. Nhà nông là chiến sỹ “. Vợ con đi tản cư, nhưng ông Hai vẫn ở lại cùng với đội du kích ” đi đào đường, đắp ụ ” để bảo vệ cái làng Chợ Dầu thân yêu. Khi thực trạng mái ấm gia đình neo bấn, vợ con thúc hách, cực chẳng đã phải xa quê nhà, ông tự an ủi mình : ” Thôi thì chẳng ở lại làng cùng bạn bè được thì tản cư âu cũng là kháng chiến ! “. Xa làng rồi nhớ làng, tính nết ông Hai có phần biến hóa. Ông ít nói ít cười, lầm lầm lì lì, thậm chí còn cáu gắt, chửi bới vợ con. Ồng vô cùng đau khổ : ” Chúng mày làm khổ ông ! Chúng mày làm khổ ông vừa vừa chứ ! Ông thì giết hết, ông thì giết hết ! “. Chúng ta cảm thông với ” tâm sự ” u uẩn của ông, thương ông lắm ! Trong lúc ông Hai đang hồ hởi với những chiến tích kháng chiến, những gương quả cảm anh hùng của quân và dân ta thì ông như bị sét đánh về cái án ” dữ ” cả làng Chợ Dầu ” Việt gian theo Tây “, .., ” vác cờ thần ra hoan hô ” lũ giặc cướp ! ông tủi nhục cúi gằm mặt mà đi, nằm vật ra giường như bị ốm nặng, nước mắt cứ tràn ra, có lúc ông chửi thề một cách chua chát ! Ông sống trong thảm kịch triền miên .

Vợ con vừa buồn vừa sợ. ” Gian nhà lặng đi, hiu hắt “. Ông sợ mụ chủ nhà … có lúc ông nghĩ quẩn ” hay ta quay về làng ” … nhưng rồi ông lại nhất quyết : ” Làng thì yêu thật, nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù !. Kim Lân rất thâm thúy và tinh xảo miêu tả những biến thái vui, buồn, lo, sợ … của người nông dân về cái làng quê của mình. Họ đã yêu làng trong tình yêu nước, đặt tình yêu nước lên trên tình yêu làng. Đó là một bài học kinh nghiệm vô cùng quý giá và thâm thúy của ông Hai đem đến cho mỗi tất cả chúng ta ! Cuộc đối thoại giữa hai bố con ông Hai là một diễn biến cảm động và mê hoặc :
… – ” À, thầy hỏi con nhé. Thế con ủng hộ ai ? ”
– ” Ủng hộ Cụ Hồ Chí Minh muôn năm ! ”
Nghe con ngây thơ nói mà nước mắt ông chảy ròng ròng trên hai má … Lòng trung thành với chủ của cha con ông, của hàng triệu nông dân Nước Ta so với lãnh tụ là vô cùng thâm thúy, kiên trì, vẻ đẹp tâm hồn ấy của họ rất đáng tự hào, ca tụng. Vì thế, khi cái tin thất thiệt ” cả cái làng Chợ Dầu Việt gian theo Tây ” được cải chính thì ông Hai là người sung sướng nhất. Ông ” vui tươi, rạng rỡ hẳn lên “, ” mồm bỏm bẻm nhai trầu, cặp mắt hung hung đỏ … “. Ông mua quà cho con. Ông chạy sang nhà bác Thứ để ” khoe ” cái tin làng Chợ Dầu đánh giặc, nhà ông bị Tây đốt. Tự hào lắm chứ ! Người đọc như được san sẻ niềm vui sướng cùng ông. Gấp trang sách lại, tất cả chúng ta bồi hồi xúc động về tình yêu làng của ông Hai, về nghệ thuật và thẩm mỹ kể chuyện tạo trường hợp mê hoặc, bồn chồn của nhà văn Kim Lân .
Những phẩm chất tốt đẹp của ông Hai như cần cù lao động, chất phác, yêu quê nhà quốc gia … tiêu biểu vượt trội cho thực chất cao quý, trong sáng của người dân cày Nước Ta. Chính họ đã đổ mồ hôi tạo ra sự những bát cơm đầy dẻo thơm nuôi sống mọi người. Chính họ đã đem xương máu, đánh giặc ” giữ làng, giữ nước, giữ mái nhà tranh, giữ đồng lúa chín ” … ( Thép Mới ). ” Quê hương là chùm khế ngọt … ” là niềm vui, nỗi buồn, là tham vọng đẹp của mỗi tất cả chúng ta. Quê hương đang thay đổi ” ngói hóa “, no ấm, phong phú trong thanh thản. Bài học thâm thúy nhất so với em khi đọc truyện ngắn này của Kim Lân là tình yêu quê nhà quốc gia, từ lòng tự hào và biết ơn người dân cày Nước Ta .

Bài văn mẫu Phân tích truyện ngắn Làng – mẫu 2

Kim Lân tên thật là Nguyễn Văn Tài sinh năm 1921, quê ở Hà Bắc. Là nhà văn chuyên viết truyện ngắn, ông đã có sáng tác đăng báo từ trước cách mạng tháng 8. Là nhà văn am hiểu thâm thúy, gắn bó với nông dân và nông thôn, Kim Lân phần đông chỉ viết về hoạt động và sinh hoạt nông thôn và cảnh ngộ của người nông dân. Truyện ngắn Làng là một trong những truyện ngắn hay nhất của Kim Lân được viết trong thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp ( 1948 ). Đây là một tác phẩm độc lạ viết về lòng yêu nước của ông Hai Tu, lòng yêu nước này xuất phát từ tình yêu quê nhà, yêu làng thâm thúy của ông. Tình cảm và ý nghĩa này đã trở thành phổ cập ở mỗi người nông dân việt nam ta trong những ngày đầu chống Pháp. Ông Hai yêu cái làng chợ Dầu của ông thật đậm đà, tha thiết, yêu đến nỗi đi đâu ông cũng khoe về cái làng của ông. Kể về làng chợ Dầu, ông nói một cách say sưa mà không cần biết người nghe có quan tâm hay không. Ông khoe làng ông có nhà ngói san sát, sầm uất, đường trong làng lát toàn bằng đá xanh, trời mưa đi từ đầu làng đến cuối xóm bùn không dính đến gót chân. Tháng 5 ngày 10 phơi rơm và thóc tốt hạng sang, không có lấy một hạt thóc đất. Ông còn tự hào về cái sinh phần của tổng đốc làng ông. Ông tự hào, vinh dự vì làng mình có cái nét độc lạ, có bề dày lịch sử vẻ vang. Nhưng khi cách mạng thành công xuất sắc, nó đã giúp ông hiểu được sự sai lầm đáng tiếc của mình. Và từ đó, mỗi khi khoe về làng là ông khoe về những ngày khởi nghĩa dồn dập, những buổi tập quân sự chiến lược có cụ râu tóc bạc phơ cũng vác gậy đi tập. Ông còn khoe cả những hố, những ụ, những hào, … lắm khu công trình không để đâu hết. Chính cái trường hợp ngặt nghèo khi giặc tràn vào làng, ông buộc phải xa làng. Xa làng ông mang theo toàn bộ nỗi niềm thương nhớ. Vì vậy, nên lúc tản cư, ông khổ tâm day dứt khôn nguôi. Quả thật, cuộc sống và số phận của ông Hai thật sự gắn bó với buồn vui của làng. Tự hào và yêu nơi ” chôn rau cắt rốn ” của mình trở thành một truyền thống cuội nguồn và tâm ý chung của mọi người nông dân thời bấy giờ. Có thể tình yêu nước của họ bắt nguồn từ cái đơn thuần, nhỏ : cây đa, giếng nước, sân đình … và nâng cao lên đó chính là : tình yêu quốc gia. Tới đây, là chợt nhớ đến câu nói bất hủ của nhà văn I-li-a Ê-ren-bua : ” lòng yêu nhà, yêu làng xóm, yêu miền quê trở nên lòng yêu tổ quốc ” .

Video bài văn mẫu Phân tích truyện ngắn Làng

Những ngày ở làng Thắng, ông Hai suốt ngày ra trụ sở để nghe ngóng tin tức về làng chợ Dầu và ông nghe tin cả làng ông Việt gian theo tây. Cổ ông lão ” nghẹn ắng lại, da mặt tê rân rân ” ông lão lặng đi, tưởng như không hề thở được. Ông cảm thấy đau đớn và nhục nhã vì cái làng chợ Dầu yêu quý của mình theo giặc. Ông nguyền rủa bọn theo Tây : ” chúng bay ăn miếng cơm hay miếng gì vào mồm mà đi làm cái giống Việt gian bán nước để nhục nhã thế này “. Cũng chính từ lúc ấy, ông không dám đi đâu hết, suốt ngày ru rú trong nhà và nghe ngóng tin tức. Đến khi mụ chủ nhà đến báo không cho mái ấm gia đình ông ở nữa, ông thấy tuyệt đường sinh sống và ông nảy ra dự tính : ” hay là quay về làng ? ” nhưng rồi ý nghĩ đó lập tức bị ông lão phản đối ngay vì : ” làng thì yêu thật, nhưng làng theo Tây thì phải thù. ” Có thể nói với ông Hai, làng và nước giờ đây đã trở thành đối địch. Hai tình cảm này đã dẫn đến cuộc xung đột nội tâm trong lòng ông. Nhưng trong đó, tình yêu quốc gia được ông Hai đặt lên trên hết. Phải thực sự am hiểu thâm thúy về con người, nhất là tâm lí của người dân thì Kim Lân mới miêu tả đúng tâm trạng nhân vật như vậy. Trong những ngày này, nỗi niềm và tâm sự của ông được bộc lộ trong những lời trò chuyện của ông với đứa con út. Trò chuyện với con như thể để thanh minh cho làng mình. Ông hỏi con : ” con ủng hộ ai ? ” Thằng bá giơ tay khỏe mạnh và rành rọt : ” Ủng hộ cụ Hồ Chí Minh muôn năm “. Cái lòng của bố con ông là thế đấy ” chết thì chết có khi nào dám đơn sai “. Thế rồi, một tin khác lại đính chính rằng làng ông không theo giặc .
Những nỗi lo âu, xấu hổ tan biến. Thay vào đó là nỗi vui mừng, sung sướng. Ông đi từ đầu làng đến cuối xóm khoe cái tin làng mình không theo giặc, khoe cả cái việc nhà ông bị đốt cháy một cách sung sướng, hả hê : ” bác Thứ đâu rồi ! Bác Thứ làm gì đấy ? Tây nó đốt nhà tôi rồi bác ạ. Đốt nhẵn ! ông quản trị làng tôi vừa mới lên trên này cải chính, ông ấy cho biết … cái tin, cái tin làng chợ Dầu chúng tôi đi Việt gian ấy mà. Láo ! Láo hết ! toàn là sai sự mục tiêu cả ” Qua lời khoe của ông Hai, điều làm ta cảm động đó là ông không hề tiếc hay buồn khi ngôi nhà của ông bị đốt. Niềm vui vì làng không theo giặc đã choáng hết tâm lý ông. Mọi đau khổ, buồn tủi đã được rũ sạch. Quả thật, Kim Lân rất thành công xuất sắc trong việc khắc họa hình ảnh của ông Hai, một trong những người dân bấy giờ, đơn thuần, chất phác, tiêu biểu vượt trội cho những tầng lớp nông dân Nước Ta sau cách mạng tháng 8. Họ đã đặt tình yêu quốc gia lên trên tình yêu làng. Kim Lân thật thành công xuất sắc trong thẩm mỹ và nghệ thuật xây xựng truyện ngắn Làng, nhất là nghệ thật sử dụng ngôn từ nhân vật mà ông Hai là nổi bật. Lời nói của ông hai đúng là lời nói của những người nông dân thời bấy giờ, kể cả những từ dung sai : ” bác Thứ đâu rồi … Láo ! Láo hết ! toàn là sai sự mục tiêu cả “. Bên cạnh đó Kim Lân còn thành công xuất sắc trong việc miêu tả tâm ý nhân vật. Diễn biến tâm ý của ông Hai từ đầu đến cuối truyện thật cảm động. Yêu làng đến nỗi đi đâu cũng khoe về làng. Khi biết làng bị tình nghi theo giặc thì ông đau khổ, tủi nhục, và khi biết làng mình không theo giặc, ông sung sướng, thậm chí còn còn khoe cả tin nhà mình bị đố cháy một cách vui sướng, hả hê. Xây dựng được những chi tiết cụ thể ấy, miêu tả sự tăng trưởng tâm ý nhân vật như vậy, Kim Lân đã chứng tỏ được tài nghệ của mình. Truyện ngắn Làng là một tác phẩm khá thành công xuất sắc khi viết về lòng yêu nước, yêu làng của người nông dân việt nam thời kháng chiến chống Pháp. Kim Lân đã bộc lộ được kĩ năng của mình qua tác phẩm này. Đọc truyện ngắn Làng giúp ta tưởng tượng được một thời kỳ chống Pháp sôi sục của nhân dân, mọi người một lòng theo Bác, theo Đảng khánh chiến đến cùng, có lẽ rằng vì vẫy mà đại chiến của ta đã dành được thắng lợi vẻ vang .