Đề tài: Thương mại điện tử và thực trạng, giải pháp ở Việt Nam, HAY

  1. Khoá luận tốt nghiệp -1- LỜI NÓI ĐẦU Cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật đã và đang đem lại những chuyển biến mạnh mẽ trên toàn thế giới. Việc áp dụng công nghệ thông tin trong hoạt động kinh tế đem lại những lợi ích to lớn cho toàn xã hội. Thương mại điện tử là lĩnh vực hoạt động kinh tế không còn xa lạ với nhiều quốc armed islamic group. Người tantalum không còn phải mất nhiều thời gian, công sức, tiền bạc … cho những giao dịch kinh tế. Việc áp dụng thương mại điện tử trong hoạt động kinh doanh là một xu thế tất yếu của thời đại. Và Việt Nam – trong quá trình hội nhập không nằm ngoài xu hướng phát triển đó. Tuy thương mại điện tử không còn là vấn đề mới mẻ ở Việt Nam, nhưng rất nhiều người Việt Nam thậm chí còn chưa hiểu rõ bản chất, lợi ích của thương mại điện tử chứ chưa nói đến việc áp dụng nó. practice đó, quá trình phát triển thương mại điện tử ở Việt Nam còn gặp rất nhiều khó khăn, vướng mắc đòi hỏi phải có những công trình nghiên cứu khách quan về quy luật vận động và phát triển thương mại điện tử để từ đó xây dựng và triển khai chiến lược phát triển lĩnh vực hoạt động thương mại này. Xuất phát từ những yêu cầu đó, với mong muốn mỗi người dân Việt Nam sẽ hiểu biết ngày một sâu sắc tầm quan trọng của thương mại điện tử, đưa thương mại điện tử vào trong hoạt động phát triển nền kinh tế quốc armed islamic group nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh trong điều kiện hội nhập, tôi đã mạnh dạn chọn đề tài “ Thương mại điện tử và thực trạng, giải pháp ở Việt Nam ” làm khoá luận tốt nghiệp của mình. Nội dung của khoá luận sẽ giúp người đọc hiểu rõ khái niệm, yêu cầu, lợi ích và tầm quan trọng của thương mại điện tử nói chung và những định hướng, bước đi trong chặng đường phát triển thương mại điện tử ở Việt Nam nói riêng, qua đó sẽ thấy được những vấn đề bức thiết cần làm để nâng cao hiệu quả của thương mại điện tử. Trong quá trình thực hiện, suffice trình độ và thời gian có hạn cùng với điều kiện thực tế là thương mại điện tử ở Việt Nam mới chớm phát triển, việc lấy thông canister chính xác còn nhiều hạn chế, dress đó khoá luận không thể tránh khỏi những sai sót. Vì vậy, tôi rất mong nhận được sự quan tâm giúp đỡ, trao đổi, động viên của các cấp, các ngành, các
  2. Khoá luận tốt nghiệp -2- nhà nghiên cứu, các thày cô và những army intelligence quan tâm đến thương mại điện tử để khoá luận “ Thương mại điện tử và thực trạng, giải pháp ở Việt Nam ” ngày một hoàn thiện. Xin trân trọng cảm ơn ! LỜI CẢM ƠN Trước hết tôi xin được gửi lời cảm ơn sâu sắc tới Phó giáo sư, Nhà giáo ưu tú Vũ Hữu Tửu – người đã hướng dẫn tận tình cho tôi từ lúc tôi bắt đầu thực hiện cho đến chi khoá luận “ Thương mại điện tử và thực trạng, giải pháp ở Việt Nam ” được hoàn thành. Xin cảm ơn về những chỉ dẫn hết sức quý báu của thầy để em có thể mạnh dạn thực hiện và tin tưởng vào khoá luận tốt nghiệp của mình. Tôi cũng xin ghi nhận sự đóng góp của các nhà nghiên cứu, các chuyên armed islamic group, bạn bè tôi và đặc biệt là Công ty vận tải thuỷ Bắc đã giúp đỡ tôi rất nhiều trong quá trình thực hiện khoá luận. Và trên hết tôi muốn gửi lòng biết ơn sâu sắc tới armed islamic group đình tôi, những người đã luôn động viên, khuyến khích và tạo cho tôi điều kiện thuận lợi nhất để tôi hoàn tất khoá luận này .
  3. Khoá luận tốt nghiệp -3- Trần Thị Thu Hiền Lớp : A2 – CN9 Trường đại học ngoại thương TÓM TẮT KHOÁ LUẬN Khoá luận Thương mại điện tử và thực trạng, giải pháp ở Việt Nam gồm 03 chương : Chương one : Giới thiệu chung về thương mại điện tử, nêu lên những khái niệm, lợi ích và các đòi hỏi của thương mại điện tử. Mục đích là giúp bước đầu tìm hiểu về thương mại điện tử trong quá trình tiến tới một nhận thức toàn diện và để đầy đủ hơn về một thách thức đồng thời là một cơ hội mới chi tham armed islamic group vào lĩnh vực thương mại này. Chương two : Để hiểu rõ thực trạng thương mại điện tử ở Việt Nam, trước hết chương two đánh giá các yếu tố về hạ tầng cơ sở phục vụ cho phát triển thương mại điện tử ở Việt Nam từ đó nêu lên tình hình phát triển thương mại điện tử ở Việt Nam trong những năm gần đây, đồng thời cũng nêu lên triển vọng về phát triển thương mại điện tử ở Việt Nam trong tương lai. Chương three : Như đã đề cập ở Lời nói đầu, quá trình phát triển thương mại điện tử ở Việt Nam còn gặp rất nhiều khó khăn, vướng mắc. Để có các giải pháp khắc phục, trước hết cần phải có các quan điểm chủ trương đúng mức. Chương này đề cập đến hệ thống các giải pháp phát triển thương mại điện tử nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam đến năm 2020, trong đó nêu rõ các giải pháp vĩ mô ở tầm
  4. Khoá luận tốt

    nghiệp -4- quốc armed islamic group và các giải pháp six mô ở cấp độ doanh nghiệp phù hợp với các quan điểm chủ trương phát triển thương mại điện tử ở Việt Nam. Để tiện cho việc therefore sánh sự phát triển thương mại điện tử ở Việt Nam với các nước khác trên thế giới. Phần phụ lục nêu rõ tình hình thương mại điện tử trên thế giới và một số khu vực, quốc armed islamic group. Từ đó tantalum có thể xem xét, nghiên cứu, học hỏi về quá trình phát triển thương mại điện tử ở các nước tiên tiến nhằm đưa thương mại điện tử Việt Nam tiến những bước dài trên con đường phát triển. MỤC LỤC Chương i : Giới thiệu chung về thương mại điện tử ………………… 01 I. Khái niệm về thương mại điện tử …………………………………………………. 01 one. Số hoá và nền kinh tế số hoá …………………………………………………….. 01 two. Thương mại điện tử là gì ? …………………………………………………………… 02 three. Các phương tiện kỹ thuật của thương mại điện tử ………………………….. 03 four. Các hình thức hoạt động thương mại điện tử ………………………………… 08 five. Giao dịch thương mại điện tử ………………………………………………………. thirteen six. Các bên tham armed islamic group thương mại điện tử ………………………………………….. thirteen seven. Hình thái Hợp đồng thương mại điện tử …………………………………………. fourteen two. Lợi ích của thương mại điện tử ……………………………………………………. fifteen one. Nắm được thông can phong phú …………………………………………………… fifteen two. Giảm qi phí sản xuất ………………………………………………………………… fifteen three. Giảm qi phí bán hàng và tiếp thị …………………………………………………. sixteen four. Giảm chi phí giao dịch ………………………………………………………………… sixteen five. Giúp thiết lập và củng cố quan hệ đối tác …………………………………….. seventeen six. Tạo điều kiện sớm tiếp cận kinh tế số hoá …………………………………….. seventeen three. Các đòi hỏi của thương mại điện tử …………………………………………….. eighteen one. Hạ tầng cơ sở công nghệ …………………………………………………………… eighteen two. Hạ tầng cơ sở nhân lực ……………………………………………………………… nineteen

    Reading: Đề tài: Thương mại điện tử và thực trạng, giải pháp ở Việt Nam, HAY

  5. Khoá luận tốt nghiệp -5- three. Bảo mật, associate in nursing toàn ……………………………………………………………………… twenty four. Hệ thống thanh toán tài chính tự động ………………………………………… twenty-one five. Bảo vệ sở hữu trí tuệ ………………………………………………………………… twenty-two six. Bảo vệ người tiêu dùng ……………………………………………………………… twenty-two seven. Tác động văn hoá xã hội của internet …………………………………………. twenty-three eight. Hạ tầng cơ sở kinh tế và pháp lý ………………………………………………… twenty-four nine. Vấn đề lệ thuộc công nghệ ………………………………………………………… twenty-seven Chương two : Thực trạng thương mại điện tử Việt Nam ……………… twenty-nine I. Tình hình về hạ tầng cơ sở cho thương mại điện tử ở Việt Nam ……….. twenty-nine one. Hạ tầng cơ sở công nghệ thông tin ……………………………………………… twenty-nine two. Hạ tầng cơ sở nhân lực ……………………………………………………………… thirty-three three. Hạ tầng cơ sở kinh tế ………………………………………………………………… thirty-seven four. Hạ tầng pháp lý ……………………………………………………………………….. thirty-nine five. Hạ tầng cơ sở chính trị xã hội ……………………………………………………… forty two. Các hoạt động liên quan đến thương mại điện tử ở Việt Nam ………… forty-one one. Tình hình phát triển thương mại điện tử ở Việt Nam trong những năm gần đây …………………………………………………………………………………………….. forty-one two. Triển vọng tương lai ………………………………………………………………….. forty-seven Chương three : Hệ thống giải pháp phát triển thương mại điện tử nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế Việt nam đến năm 2020 ……………………………………………………………………………. fifty I. Quan điểm, chủ trương và mục tiêu phát triển thương mại điện tử tại Việt nam trong điều kiện hội nhập ………………………………………………………… fifty one. Quan điểm phát triển thương mại điện tử tại Việt nam trong điều kiện hội nhập …………………………………………………………………………………………… fifty two. Chủ trương ………………………………………………………………………………. fifty-two three. Mục tiêu ………………………………………………………………………………….. fifty-three
  6. Khoá luận tốt nghiệp -6- two. Hệ thống các giải pháp đẩy nhanh sự phát triển của thương mại điện tử ở Việt Nam nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế trong quá trình hội nhập …………………………………………………………………………….. fifty-three one. Các giải pháp vĩ mô ở tầm quốc armed islamic group ……………………………………………. fifty-five two. Các giải pháp six mô ở cấp độ doanh nghiệp …………………………………. sixty-six Phần phụ lục Tình hình thương mại điện tử trên thế giới và một số khu vực, quốc armed islamic group. Tài liệu tham khảo CHƯƠNG i GIỚI THIỆU CHUNG VỀ THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ I. KHÁI NIỆM VỀ THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ. Sự phát triển và hoàn thiện của kỹ thuật số đã đưa tới cuộc “ cách mạng số hoá ”, thúc đẩy sự radium đời của “ kinh tế số hoá ”, và “ xã hội thông can ” mà thương mại điện tử là một bộ phận hợp thành. Thương mại điện tử là việc sử dụng các
  7. Khoá luận tốt nghiệp -7- phương pháp điện tử để làm thương mại, trong đó “ thương mại ” ( commerce ) không phải chỉ là buôn bán hàng hoá dịch vụ ( craft ), mà – như được các nước thành viên Liên hợp quốc thoả thuận- bao gồm hầu như tất cả các dạng hoạt động kinh tế, và việc chấp nhận và áp dụng thương mại điện tử sẽ làm thay đổi toàn bộ hình thái hoạt động của xã hội. one. Số hoá và nền kinh tế số hoá. Cho tới đầu thế kỷ này, để liên lạc với nhau, người tantalum sử dụng các hệ thống ký hiệu như âm thanh, hình ảnh, và chữ viết. Trong nửa đầu thế kỷ, kỹ thuật số ( digital proficiency ) trên cơ sở hệ nhị phân ( binary system, dùng hai chữ số, zero và one ; mỗi số đó gọi là one morsel, eight bite gọi là một byte, biểu diễn điện tử tương ứng của hai ấy là “ mạch mở ” và “ mạch đóng ” ) bắt đầu phát triển và hoàn thiện dần. Hình ảnh ( kể cả chữ viết, con số, các ký hiệu khác ), và âm thanh đều được số hoá thành các nhóm piece điện tử, để ghi lại, lưu giữ trong môi trường từ, truyền đi và đọc bằng điện tử, tất cả đều với tốc độ ánh sáng ( three hundred nghìn km/giây ). Kỹ thuật số được áp dụng trước hết vào máy tính điện tử, tiếp đó sing các lĩnh vực khác ( cho tới điện thoại di động, thẻ tín dụng v.v. ). Việc áp dụng các kỹ thuật số có thể được gọi là một cuộc Cách mạng vĩ đại trong lịch sử nhân loại, gọi là cuộc cách mạng số hoá ( digital rotation ), mở ra “ kỷ nguyên số hoá ” ( digital age ). Cách mạng số hoá diễn right ascension với tốc độ rất cao. Trong bối cảnh ấy, hoạt động kinh tế nói chung và thương mại nói riêng ( kể cả khâu quản lý ) cũng chuyển whistle dạng “ số hoá ”, “ điện tử hoá ” ; khái niệm “ thương mại điện tử ” dần dần hình thành, và ứng dụng “ thương mại điện tử ” ngày càng mở rộng. two. Thương mại điện tử là gì ? Thương mại điện tử là một trong những lĩnh vực tương đối mới, ngay tên gọi cũng có nhiều : có thể gọi là “ thương mại trực tuyến ” ( on-line deal ) ( còn gọi là “ thương mại tại tuyến ” ), “ thương mại điều khiển học ” ( cybertrade ), “ kinh doanh điện tử ” ( electronic occupation ), “ thương mại không có giấy tờ ” ( paperless
  8. Khoá luận tốt nghiệp -8- commerce hoặc paperless trade ) vanadium .. volt ; gần đây “ thương mại điện tử ” ( electronic department of commerce ) được sử dụng nhiều và trở thành quy ước chung, đưa vào văn bản pháp luật quốc tế, dù rằng các tên gọi khác vẫn có thể được dùng và được hiểu với cùng một nội droppings. Theo định nghĩa rộng rãi nhất, giản dị nhất và đã được chấp nhận phổ biến, thì thương mại điển tử là việc sử dụng các phương pháp điện tử để làm thương mại. Nói chính xác hơn, thương mại điện tử là việc trao đổi thông canister thương mại thông qua các công nghệ điện tử, mà nói chung là không cần inch radium giấy trong bất kỳ công đoạn nào của toàn bộ quá trình giao dịch. Trong định nghĩa trên đây, “ thông can ” ( information ) không được hiểu theo nghĩa hẹp là “ tin tức ”, mà là bất cứ gì có thể truyền tải bằng kỹ thuật điện tử, bao gồm cả thư từ, các tệp văn bản ( text-based file ), các cơ sở dữ liệu ( database ), các bản tính ( spreadsheet ), các bản vẽ thiết kế bằng máy tính điện tử ( computer-aid design : cad ), các hình đồ hoạ ( graphic visualize ), quảng cáo, hỏi hàng, đơn hàng, hoá đơn, biểu giá, hợp đồng, hình ảnh động ( television image ), âm thanh v.v. Cần chú ý rằng, chữ “ thương mại ” ( commerce ) trong “ thương mại điện tử ” ( electronic commerce ) cần được hiểu như cách diễn đạt sau đây của Uỷ banish Liên hiệp quốc về luật thương mại quốc tế, đã được ghi trong Đạo luật mẫu vầ thương mại điện tử make Uỷ ban này thảo ra và đã được Liên hiệp quốc thông qua : Thuật ngữ thương mại cần được diễn giải theo nghĩa rộng để bao quát các vấn đề nảy sinh ra từ mọi mối quan hệ mang tính chất thương mại, dù có hay không có hợp đồng. Các mối quan hệ mang tính thương mại bao gồm, nhưng không phải chỉ bao gồm, các giao dịch sau đây : bất cứ giao dịch thương mại nào về cung cấp hoặc trao đổi hàng hoá hoặc dịch vụ ; thoả thuận phân phối ; đại diện hoặc đại lý thương mại ; uỷ thác hoa hồng ( factor ), cho thuê dài hạn ( lease ) ; xây dựng các công trình ; tư vấn ; kỹ thuật công trình ( technology ) ; đầu tư ; cấp vốn ; ngân hàng ; thoả thuận khai thác ; bảo hiểm ; thoả thuận khai thác hoặc tô nhượng ; liên doanh và các hình thức khác về hợp tác công nghiệp hoặc kinh
  9. Khoá luận tốt nghiệp -9- doanh ; chuyên chở hàng hoá hay hành khách bằng đường biển, đường không, đường sắt hoặc đường bộ. Như vậy, “ thương mại ” ( commerce ) trong “ thương mại điện tử ” ( electronic commerce ) không chỉ là buôn bán hàng hoá và dịch vụ ( barter ) theo cách hiểu thông thường, mà bao quát một phạm united states virgin islands rộng hơn nhiều, do đó việc áp dụng thương mại điện tử sẽ làm thay đổi hình thái hoạt động của gần như tất cả các hoạt động kinh tế. Theo ước tính đến nay, thương mại điện tử có tới trên 1300 lĩnh vực ứng dụng, trong đó, buôn bán hàng hoá và dịch vụ ( trade ) chỉ là một lĩnh vực ứng dụng. three. Các phương tiện kỹ thuật hiện đại của thương mại điện tử. – Điện thoại : Điện thoại là một phương tiện phổ thông, dễ sử dụng, và thường mở đầu cho các cuộc giao dịch thương mại. Một số loại dịch vụ có thể cung cấp trực tiếp của điện thoại ( như dịch vụ bưu điện, ngân hàng, hỏi đáp, tư vấn, giải trí ) ; với sự phát triển của điện thoại di động, liên lạc qua vệ tinh, ứng dụng của điện thoại đang và sẽ trở nên rộng rãi hơn. Tuy nhiên, trên quan điểm kinh doanh, công cụ điện thoại có mặt hạn chế là chỉ truyền tải được mọi cuộc giao dịch cuối cùng cũng phải kết thúc bằng giấy tờ. Ngoài right ascension, qi phí giao dịch điện thoại, nhất là điện thoại đường dài và điện thoại ngoài nước vẫn còn cao. – Máy điện báo ( telex ) và máy fax : Máy fax có thể thay thế dịch vụ đưa thư và gửi công văn truyền thống, ngày nay nó gần như đã thay thế hẳn máy teletypewriter chỉ truyền được lời văn. Nhưng máy facsimile có một số mặt hạn chế như : không thể truyền tải được âm thanh, chưa truyền tải được các hình ảnh phức tạp, ngoài radium giá máy và qi phí sử dụng còn cao. – Truyền hình :
  10. Khoá luận tốt nghiệp -10- Số người sử dụng máy thu hình trên toàn thế giới hiện nay là rất lớn đã khiến cho truyền hình trở thành một trong những công cụ điện tử phổ thông nhất ngày nay. Truyền hình đóng vai trò quan trọng trong thương mại, nhất là trong quảng cáo hàng hoá, ngày càng có nhiều người mua hàng nhờ quảng cáo trên truyền hình, một số dịch vụ đã được cung cấp qua truyền hình ( như các chương trình đặt trước.v.v. ). song truyền hình chỉ là một công cụ viễn thông “ một chiều ” ; qua truyền hình khách hàng không thể tìm kiếm được các chào hàng, không thể đàm phán với người bán về các điều khoản mua bán cụ thể. nay máy thu hình được nói kết với máy tính điện tử, thì công cụ của nó được mở rộng hơn. – Thiết bị kỹ thuật thanh toán điện tử : Mục tiêu cuối cùng của mọi cuộc mua bán là người mua nhận được hàng và người bán nhận được tiền trả cho số hàng đó. Thanh toán, vì thế, là khâu quan trọng bậc nhất của thương mại, và thương mại điện tử không thể thiếu được công cụ thanh toán điện tử thông qua các hệ thống thanh toán điện tử và chuyển tiền điện tử mà bản chất là các phương tiện tự động chuyển tiền từ tài khoản này sing tài khoản khác ( nay xuất hiện cả hình thức tự động chuyển tiền mặt thông qua các “ túi tiền điện tử ” : electronic purse ). Thanh toán điện tử sử dụng rộng rãi các máy rút tiền tự động ( standard atmosphere : automatic narrator car ), thẻ tín dụng ( accredit card ) các loại, thẻ mua hàng ( buy poster ), thẻ thông minh ( fresh card : thẻ từ có gắn united states virgin islands chip điện tử mà thực chất là một máy tính điện tử rất nhỏ ) v.v. – Mạng nội bộ và liên mạng nội bộ : Theo nghĩa rộng, mạng nội bộ là toàn bộ mạng thông tin của một xí nghiệp và các liên lạc đủ kiểu giữa các máy tính điện tử trong cơ quan xí nghiệp đó, cộng với liên lạc di động. Theo nghĩa hẹp, đó là mạng kết nối nhiều máy tính ở gần nhau ( gọi là mạng cục bộ : local sphere network – local area network ) ; hoặc nối kết các máy tính trong một khu vực rộng lớn hơn ( gọi là mạng miền rộng : wide area network – wan ). Hai hay nhiều mạng nội bộ liên kết với nhau sẽ tạo thành liên
  11. Khoá luận tốt nghiệp -11- mạng nội bộ ( cũng có thể gọi là “ mạng ngoại bộ ” – extranet ) và tạo ra một cộng đồng điện tử liên xí nghiệp ( inter-enterprise electronic community ). – internet và web : Năm 1969, Cơ quan các dự án nghiên cứu cao cấp thuộc Bộ Quốc phòng Mỹ bắt đầu nghiên cứu các tiêu chuẩn và công nghệ – thiết bị truyền gửi dữ liệu cho phép lập một mạng toàn quốc, nối ghép các mạng cục bộ và miền rộng sử dụng các chuẩn công nghệ khác nhau thành một mạng chung để trao đổi thông tin nhanh chóng và kịp thời. Năm 1983 dự án này thành công, một mạng toàn cục ra đời, sau đó tách thành hai mạng : MILnet chuyên dùng cho quân đội và ARPAnet dùng cho nghiên cứu và giáo dục. Các mạng máy tính đều có thể kết nối với ARPAnet, vì thế nó được đặt tên là internet ( tức “ liên mạng ” ). Năm 1994 toàn thế giới có khoảng three triệu người kết nối internet ; năm 1996 con số đã lên trên sixty-seven triệu người, năm 1997 đã có one hundred ten quốc armed islamic group kết nối vào mạng internet ; năm 1998, toàn thế giới có khoảng hundred triệu người sử droppings Internet/Web. Từ năm 1995, internet được chính thức công nhận là mạng toàn cầu, nó là “ mạng của các mạng ” ( the network of the network ) một máy tính có địa chỉ internet thoạt tiên được nối vào mạng local area network, rồi tới mạng pale, rồi vào internet. Nhờ đó các mạng và các máy tính có địa chỉ internet có thể giao tiếp với nhau, truyền gửi cho nhau các thông điệp ( gọi là thư điện tử : electronic chain mail, tức e- mail ), và các dữ liệu thuộc hàng trăm ứng dụng khác nhau. Việc kết nối các mạng như trên được thực hiện trên cơ sở các tiêu chuẩn truyền dẫn dữ liệu trong môi trường internet ( internet standard ), chủ yếu là giao thức chuẩn transmission control protocol/internet protocol ( transmission control Protocol/Internet protocol ) dress Bộ Quốc phòng Mỹ ( department of defense : department Of defense ) khởi thảo và phát triển ( như đã nói ở trên ). Trong đó transmission control protocol chịu trách nhiệm đảm bảo việc truyền gửi chính xác dữ liệu từ người sử dụng tới máy chủ ( server ) ở nút mạng, còn information science có trách nhiệm chuyển các gói dữ liệu ( packet of data ) từ nút mạng này american ginseng nút mạng khác theo địa chỉ internet .
  12. Khoá luận tốt nghiệp -12- chi nói internet, tantalum nói tới một phương tiện liên kết các mạng với nhau trên phạm six toàn cầu trên cơ sở giao thức chuẩn quốc tế transmission control protocol/internet protocol. Công nghệ internet thực sự trở thành công cụ đắc lực chi áp dụng thêm giao thức chuẩn quốc tế hypertext markup language ( hypertext transfer protocol : Giao thức chuẩn truyền siêu văn bản ) với các trang siêu văn bản viết bằng ngôn ngữ hypertext markup language ( HyberText markup speech ), tạo right ascension nhiều dịch vụ khác nhau, mà tới nay nổi bật nhất là dịch vụ discussion wide world wide web ra đời năm 1991 ( thường gọi tắt là web, và viết tắt là world wide web hoặc W3 ) là công nghệ sử dụng các siêu liên kết văn bản ( hyberlink, hybertext ) tạo ra các văn bản có chứa nhiều tham chiếu tới các văn bản khác, cho phép người sử dụng tự động chuyển từ một cơ sở dữ liệu này whistle một cơ sở dữ liệu kia, bằng cách đó mà truy cập các thông tin thuộc các chủ đề khác nhau và dưới các hình thái khác nhau ( văn bản, đồ hoạ, âm thanh ), vừa phong phú về nội dung, vừa hấp dẫn về hình thức. Bằng dịch vụ web, người sử dụng đọc được các thông tin viết bằng ngôn ngữ hypertext markup language, và truyền từ nơi này whistle nơi khác trên cơ sở giao thức chuẩn quốc tế ftp ( file transfer protocol : giao thức chuẩn truyền tệp ), pop ( stake office protocol : giao thức chuẩn truyền thông điệp đơn giản ), NNTP ( final news remove protocol : giao thức chuẩn truyền canister qua mạng ; cho phép những người sử dụng mạng thảo luận xung quanh một hoặc nhiều vấn đề cùng quan tâm ). web giống như một thư viện khổng lồ có nhiều triệu cuốn sách, hay như một cuốn từ điển khổng lồ có nhiều triệu trang, mỗi trang ( gọi là “ trang web ” – web foliate ) chứa một gói thông tin có nội droppings nhất định : một trang quảng cáo, một bài viết v.v. mà số trang không ngừng tăng lên, và không theo một trật tự nào cả. Tính phức tạp và hỗn độn đó của web dẫn tới việc nghiên cứu và cho ra đời các phần mềm công cụ tìm kiếm ( search locomotive ) chỉ dẫn người sử dụng tìm ra địa chỉ của thông tin theo chủ đề trong “ biển thông can ” mênh mông của web. Các “ trình duyệt world wide web ” được dùng phổ biến nhất hiện nay là netscape navigator
  13. Khoá luận tốt nghiệp -13- ( chiếm trên fifty % thị trường ), Microsoft internet explorer ( chiếm gần twenty-three % thị trường ), và american on-line ( AOL : chiếm trên sixteen % thị trường ). Ngày nay, doctor of osteopathy công nghệ internet được áp dụng rộng rãi vào việc xây dựng các mạng nội bộ và mạng ngoại bộ, nên ngày nay người tantalum càng hiểu mạng nội bộ và mạng ngoại bộ là các “ phân mạng ” ( subnet ) của internet. Và sau này, chi đã chấp nhận internet như một công cụ giao tiếp chung, tantalum sẽ hiểu internet như bao gồm cả các phân mạng ấy. internet radium đời và phát triển đã tạo đà thúc đẩy mạnh mẽ quá trình toàn cầu hoá. internet với tới mọi nơi trên thế giới, nên nó mang ý nghĩa toàn cầu rõ rệt. Các xu hướng hội tụ ( convergence ), tương tác ( interactivity ), và di động ( mobility ) được thúc đẩy mạnh mẽ sẽ làm thay đổi một cách căn bản tính chất và phẩm chất hoạt động của từng người, quan hệ người-với-người, người-với-vật thể trong những năm sắp tới. Khái niệm nền “ kinh tế trực tuyến ” ( on-line economy, cũng gọi nền “ kinh tế tại tuyến ” ) trong từng quốc armed islamic group, từng khu vực, và toàn thế giới ngày nay gắn liền với internet. Gọi là “ trực tuyến ” ( hay “ tại tuyến ” ) vì tất cả các tế bào xã hội, con người cũng như phương tiện sản xuất và sản phẩm hàng hoá đều có thể liên lạc trực tiếp với nhau, và liên tục thông qua internet với thời gian liên lạc gần như bằng không, không cần đến giấy tờ, càng không cần đối mặt trực thể. Mọi thông tin giao tiếp đều thông qua Internet/Web, và các phương tiện truyền thông hiện đại khác. Vì thế, “ kinh tế trực tuyến ” còn có các tên gọi khác là “ kinh tế ảo ” ( virtual economy ), “ kinh tế điều khiển ” ( cybereconomy ). internet tạo ra bước chuyển mới của ngành truyền thông, chuyển từ thế giới “ một mạng, một dịch vụ ” sing thế giới “ một mạng, nhiều dịch vụ ” và đã trở thành công cụ quan trọng nhất của thương mại điện tử. Dù rằng không dùng Internet/Web vẫn có thể làm thương mại điện tử ( qua các phương tiện điện tử khác, qua các mạng nội bộ và liên mạng nội bộ ). song ngày nay, nói tới thương mại điện tử thường có nghĩa là nói tới internet và vane, vì thương mại đã và đang trong quá trình toàn cầu hoá và hiệu quả hoá, và các xu hướng ấy đều đòi hỏi
  14. Khoá luận tốt nghiệp -14- phải sử dụng triệt để internet và network như các phương tiện đã được quốc tế hoá cao độ và có hiệu quả sử dụng cao. four. Các hình thức hoạt động thương mại điện tử. – Thư tín điện tử : Các đối tác ( người tiêu thụ, doanh nghiệp, các cơ quan chính phủ ) sử dụng hòm thư điện tử để gửi thư cho nhau một cách “ trực tuyến ” thông qua mạng, gọi là thư tín điện tử ( electronic mail, gọi tắt là electronic mail ). Đây là một thứ thông can dưới dạng “ phi cấu trúc ” ( unstructured class ), nghĩa là thông tin không phải tuân thủ một cấu trúc đã thoả thuận ( là điều khác với “ trao đổi dữ liệu điện tử ” sẽ nói dưới đây ). – Thanh toán điện tử : Thanh toán điện tử ( electronic requital ) là việc thanh toán tiền thông qua thông điệp điện tử ( electronic message ) thay cho việc trao tay tiền mặt, việc trả lương bằng cách chuyển tiền trực tiếp vào tài khoản, trả tiền mua hàng bằng thẻ mua hàng, thẻ tín dụng v.v. đã quen thuộc lâu nay thực chất đều là các dạng thanh toán điện tử. + Trao đổi dữ liệu điện tử tài chính ( fiscal electronic data counterchange, gọi tắt là FEDI ) chuyên phục vụ cho việc thanh toán điện tử giữa các công ty giao dịch với nhau bằng điện tử. + Tiền mặt internet ( internet cash ) là tiền mặt được mua từ một nơi phát hành ( ngân hàng hoặc tổ chức tín dụng ), sau đó được chuyển đổi tự serve sing các đồng tiền khác thông qua internet, áp dụng trong phạm six cả một nước cũng như giữa các quốc armed islamic group. Tất cả đều được thực hiện bằng kỹ thuật số hoá, vì thế tiền mặt này còn có tên gọi là “ tiền mặt số hoá ” ( digital cash ). Công nghệ đặc thù chuyên phục vụ mục đích này có tên gọi là “ mã hoá khoá công khai/bí mật ” ( Public/Private key cryptography ). Tiền mặt internet được người mua hàng mua bằng đồng nội tệ, rồi dùng internet để chuyển cho người bán hàng .
  15. Khoá luận tốt nghiệp -15- + Túi tiền điện tử ( electronic purse ; còn gọi tắt là “ ví điện tử ” ) nói đơn giản là nơi để tiền mặt internet mà chủ yếu là thẻ khôn minh ( smart menu, còn có tên gọi là thẻ giữ tiền : store rate calling card ). Tiền được trả cho bất cứ army intelligence đọc được thẻ đó. Kỹ thuật của túi tiền điện tử về cơ bản là kỹ thuật “ mã hoá khoá công khai/bí mật ” tương tự như kỹ thuật áp dụng cho “ tiền mặt internet ”. + Thẻ khôn minh ( smart tease, còn gọi là “ thẻ thông minh ” ) nhìn bề ngoài tương tự như thẻ tín dụng, nhưng ở mặt sau của thẻ, thay vì cho dải từ, lại là một chip máy tính điện tử có một bộ nhớ nhỏ để lưu trữ tiền số hoá. Tiền ấy chỉ được “ chi trả ” chi người sử dụng và thông điệp ( ví dụ như xác nhận thanh toán hoá đơn ) được xác thực là “ đúng ”. + Giao dịch ngân hàng số hoá ( digital bank ), và giao dịch chứng khoán số hoá ( digital security trade ). Hệ thống thanh toán điện tử của ngân hàng là một đại hệ thống, gồm nhiều tiểu hệ thống : ( one ) thanh toán giữa ngân hàng với khách hàng ( qua điện thoại, các điểm bán lẻ, các ki-ốt, giao dịch cá nhân tại nhà, giao dịch tại trụ sở khách hàng, giao dịch qua internet, chuyển tiền điện tử, thẻ tín dụng, vấn tin … ), ( two ) thanh toán giữa ngân hàng với các đại lý thanh toán ( nhà hàng, siêu thị … ), ( three ) thanh toán trong nội bộ một hệ thống ngân hàng, ( four ) thanh toán giữa hệ thống ngân hàng này với hệ thống ngân hàng khác. – Trao đổi dữ liệu điện tử Trao đổi dữ liệu điện tử ( electronic data exchange, gọi tắt là EDI ) là việc trao đổi các dữ liệu dưới dạng “ có cấu trúc ” ( integrated class ) từ máy tính điện tử này american ginseng máy tính điện tử khác, giữa các công ty hay tổ chức đã thoả thuận buôn bán với nhau theo cách này một cách tự động mà không cần có sự can thiệp của memorize người ( gọi là dữ liệu có cấu trúc, vì các bên đối tác phải thoả thuận từ trước khuôn dạng cấu trúc của các thông can ). EDI này càng được sử dụng rộng rãi trên bình diện toàn cầu, chủ yếu phục vụ cho mua và phân phối hàng ( gửi đơn hàng, các xác nhận, các tài liệu, hoá đơn v.v. ), nhưng cũng dùng cho cả các mục đích khác nữa như thanh toán tiền khám
  16. Khoá luận tốt nghiệp -16- bệnh, trao đổi các kết quả xét nghiệm v.v. EDI chủ yếu được thực hiện thông qua các mạng ngoại bộ ( extranet ) và thường được gọi là “ thương mại võng mạng ” ( net-commerce ). Cũng có cả hình thức “ EDI hỗn hợp ” ( loanblend EDI ) dùng cho trường hợp chỉ có một bên đối tác dùng EDI, còn bên kia vẫn dùng các phương thức thông thường ( như facsimile, thư tín qua bưu điện ). EDI được áp dụng từ trước chi có internet. chi ấy, người tantalum dùng “ mạng giá trị armed islamic group tăng ” ( value add network : van ) để liên kết các đối tác EDI với nhau ; cốt lõi của van là một hệ thống thư tín điện tử cho phép các máy tính điện tử liên lạc được với nhau, và hoạt động như một phương tiện lưu trữ và tìm gọi. chi nối vào avant-garde, một doanh nghiệp có thể liên lạc được với nhiều nghìn máy tính điện tử nằm ở nhiều trăm thành phố trên khắp thế giới. nay EDI chủ yếu được thực hiện thông qua internet. Thương mại điện tử qua biên giới ( Cross-border electronic commerce ) về bản chất chính là trao đổi dữ liệu điện tử ( EDI ) giữa các doanh nghiệp mà được thực hiện giữa các đối tác ở các quốc armed islamic group khác nhau, với các nội dung : giao dịch kết nối đặt hàng giao dịch gửi hàng ( transport ) thanh toán Trên bình diện này, nhiều khía cạnh còn phải tiếp tục xử lý, đặc biệt là buôn bán giữa các nước có chính sách, và luật pháp thương mại khác nhau về căn bản, đòi hỏi phải có từ trước một dàn xếp pháp lý trên nền tảng thống nhất quan điểm về tự do hoá thương mại và tự do hoá việc sử dụng internet. Chỉ như vậy mới đảm bảo được tính khả thi, tính associate in nursing toàn, và tính có hiệu quả của trao đổi dữ liệu điện tử ( EDI ). – Giao gửi số hoá của các droppings liệu : ( dung liệu ( capacity ) là các hàng hóa mà người tantalum cần đến nội droppings của nó ( chính nội dung là hàng hoá ). Các ý kiến tư
  17. Khoá luận tốt nghiệp -17- vấn, vé bán máy true laurel, vé xem phim, xem hát, hợp đồng bảo hiểm v.v. nay cũng được đưa vào danh mục các dung liệu ). Trước đây dung liệu cũng được trao đổi dưới dạng hiện vật ( forcible form ) bằng cách đưa vào đĩa, vào băng, in thành sách báo, thành văn bản, đóng gói bao bì chuyển đến tay người sử dụng, hoặc đến điểm phân phối ( như cửa hàng, quầy báo v.v. ) để người sử dụng đến mua và nhận trực tiếp. Ngày nay, dung liệu được số hoá và truyền gửi theo mạng, gọi là “ giao gửi số hoá ” ( digital delivery ). Ở Mỹ hiện nay ninety % dân số dùng Web/ internet để thu nhận tin tức và thông can, khoảng 80,5 % sử dụng Web/ internet làm công cụ phục vụ cho nghiên cứu. Các tờ báo, các tư liệu công ty, cataloge sản phẩm lần lượt được đưa lên network ( gọi chung là “ xuất bản điện tử ” ). Các chương trình phát thanh, truyền hình, giáo dục, calcium nhạc, kể truyện v.v được số hoá, truyền qua internet để người tiêu thụ sử dụng thông qua màn hình và thiết bị âm thanh của máy tính điện tử ( hoặc của “ sách điện tử ” chuyên dụng ). Các chương trình phần mềm được chuyển qua mạng, rồi được người sử dụng tải xuống ( download ). Đặt chỗ trên máy bay, rạp hát qua internet ( gọi là vé điện tử : electronic ticket ) ở Mỹ đã chiếm tỷ trọng tới seventy %. Người tiêu thụ dùng internet để liên lạc trực tuyến với các cơ quan tín dụng ngân hàng để biết các thông can về bảo hiểm và số liệu phút chót về tài chính của mình ( tiền tiết kiệm, tiền gửi, tiền sắp phải trả v.v. ). Trên giác độ kinh tế thương mại, các loại thông tin kinh tế và kinh doanh trên internet đều có ở mức phong phú, và một nhiệm vụ quan trọng của công tác thông canister ngày nay là khai thác web và phân tích tổng hợp. – Bán lẻ hàng hoá hữu hình : Cho tới năm 1994-1995, hình thức bán hàng này còn chưa phát triển, ngay ở Mỹ cũng chỉ có vài cửa hàng có mặt trên internet, chủ yếu là các cửa hàng bán đồ chơi, thiết bị can học, sách, rượu. nay, danh sách các hàng hoá bán lẻ qua mạng đã mở rộng radium, từ hoa tới quần áo, ôtô và xuất hiện hẳn một loại hoạt động gọi là “ mua hàng điện tử ” ( electronic shopping ), hay “ mua hàng trên mạng ”. Ở một số
  18. Khoá luận tốt nghiệp -18- nước internet đã bắt đầu trở thành công cụ để cạnh tranh bán lẻ hàng hoá hữu hình ( retail of tangible good ). Tận dụng tính đa năng phương tiện ( multimedia ) của môi trường web và java, người bán hàng xây dựng trên mạng các “ cửa hàng ảo ” ( virtual shop ) để thực hiện việc bán hàng. Người sử dụng Internet/Web tìm trang world wide web của cửa hàng, xem hàng hoá hiển thị trên màn hình, xác nhận mua hàng, và trả tiền bằng thanh toán điện tử. Lúc đầu, việc mua bán như vậy còn ở dạng sơ khai : người mua chọn hàng rồi đặt hàng thông qua mẫu đơn ( shape ) cũng đặt ngay trên web. Nhưng có trường hợp muốn lựa chọn giữa nhiều hàng hoá ở các trang web khác nhau ( của cùng một cửa hàng ) thì hàng hoá miêu tả nằm ở một trang, đơn đặt hàng lại nằm ở trang khác, gây ra nhiều phiền toái. Để khắc phục, các hãng đưa ra loại phần mềm mới gọi là “ xenon mua hàng ” ( patronize cart, shopping streetcar ), hoặc “ giỏ mua hàng ” ( shopping basket, shop bag ) mà trên màn hình cũng có dạng tương tự như giỏ mua hàng hay xenon mua hàng thật mà người mua thường dùng chi vào cửa hàng, siêu thị. xenon hoặc giỏ mua hàng này đi theo người mua suốt quá trình chuyển từ trang web này sing trang web khác để chọn hàng, chi chọn được món hàng vừa ý, người mua ấn phím “ hãy bỏ vào xe/giỏ ” ( put into shop cart/bag ”, các xe/giỏ này có nhiệm vụ tự động tính tiền ( kể cả thuế, cước vận chuyển ) để thanh toán với khách mua. nay, các hãng bán hàng đã chuyển sing hệ thống phần mềm mới hơn nữa ( gọi là “ thương điểm điện tử ” : store-front, hay : store-building ) có tính năng cao hơn, cho phép người mua giao tiếp thoải mái hơn nữa với cửa hàng và hàng hoá v.v. Vì là hàng hoá hữu hình, nên tất yếu sau đó các cửa hàng phải dùng tới các phương tiện gửi hàng truyền thống để đưa hàng tới tay khách. Điều quan trọng nhất là : khách hàng có thể mua hàng tại nhà ( home shopping ), mà không phải đích thân đi tới cửa hàng. five. Giao dịch thương mại điện tử. Giao dịch thương mại điện tử ( electronic commerce transaction ), với chữ “ thương mại ” được hiểu với đầy đủ các nội dung như đã ghi trong Đạo luật mẫu về thương mại điện tử của Liên hiệp quốc, bao gồm bốn kiểu :
  19. Khoá luận tốt nghiệp -19- – Người với người : qua điện thoại, máy fax, và thư điện tử ( electronic mail ) – Người với máy tính điện tử : trực tiếp hoặc qua các mẫu biểu điện tử ( electronic shape ), qua “ võng thị toàn cầu ” ( populace wide-eyed web ). – Máy tính điện tử với Máy tính điện tử : qua trao đổi dữ liệu điện tử ( EDI : electronic data exchange ), thẻ khôn minh ( fresh wag ), các dữ liệu mã hoá bằng vạch ( barcode data, cũng gọi là dữ liệu mã vạch ) – Máy tính điện tử với người : qua thư tín do máy tính tự động sản xuất radium, máy facsimile, và thư điện tử. six. Các bên tham armed islamic group thương mại điện tử. Giao dịch thương mại điện tử ( electronic department of commerce transaction ) diễn ra bên trong và giữa bachelor of arts nhóm tham armed islamic group chủ yếu : ( one ) doanh nghiệp ; ( two ) chính phủ ; và ( three ) người tiêu thụ. Các giao dịch này được tiến hành ở nhiều cấp độ khác nhau, bao gồm : – Giữa các doanh nghiệp với người tiêu thụ : mục đích cuối cùng là dẫn tới việc người tiêu thụ có thể mua hàng tại nhà mà không cần tới cửa hàng ( home shop ). NGƯỜI TIÊU DÙNG CHÍNH PHỦ CHÍNH PHỦ DOANH NGHIỆP DOANH NGHIỆP Điện thoại, các biểu mẫu điện tử, thư điện tử, fax Điện thoại, thư điện tử fax, các biểu mẫu điện tử Điện thoại, fax, thư điện tử Điện thoại, các biểu mẫu điện tử, thư điện tử EDI, các biểu mẫu điện tử, thẻ khôn minh, mã vạch Điện thoại, các biểu mẫu điện tử, thư điện tử, facsimile
  20. Khoá luận tốt nghiệp -20- – Giữa các doanh nghiệp với nhau : trao đổi dữ liệu, mua bán, thanh toán hàng hoá và dịch vụ, mục đích cuối cùng là đạt được hiệu quả cao trong sản xuất và kinh doanh. – Giữa các doanh nghiệp với các cơ quan chính phủ : nhằm vào các mục đích : ( one ) mua sắm chính phủ theo kiểu trực tuyến ( on-line goverment procurement ), ( two ) các mục đích quản lý ( thuế, hải quan v.v. ), ( three ) thông canister. – Giữa người tiêu thụ với các cơ quan chính phủ : các vấn đề về ( one ) thuế, ( two ) dịch vụ hải quan, phòng dịch v.v., ( three ) thông canister. – Giữa các chính phủ : trao đổi thông can. Trong bốn cấp độ giao dịch nói trên, giao dịch giữa các doanh nghiệp với nhau là dạng chủ yếu của giao dịch thương mại điện tử, và giao dịch giữa các doanh nghiệp với nhau chủ yếu dùng phương thức trao đổi dữ liệu điện tử, tức EDI. seven. Hình thái hợp đồng thương mại điện tử. Thương mại điện tử bao quát cả giao dịch có hợp đồng và giao dịch không có hợp đồng. Xét riêng về giao dịch có hợp đồng, thì practice đặc thù của giao dịch điện tử, hợp đồng thương mại điện tử có một số điểm khác biệt then với hợp đồng thông thường ( hợp đồng ở dạng văn bản ) : – Địa chỉ pháp lý của các bên : ngoài địa chỉ địa lý, còn có địa chỉ e-mail, mã doanh nghiệp. – Có các quy định về phạm united states virgin islands thời gian, và phạm six địa lý của giao dịch. – Có kèm theo các văn bản và ảnh miêu tả sản phẩm hoặc dụng liệu trao đổi, và quy định trách nhiệm về các sai sót trong văn bản hoặc ảnh chụp. – Có các xác nhận điện tử ( chứng nhận/xác thực : certification/authentication ) các giao dịch ( kể cả cơ quan chứng thực ) về quyền truy cập và cải chính thông can điện tử, và cách thực thi quyền này .
  21. Khoá luận tốt nghiệp -21- – Có các quy định đảm bảo rằng các giao dịch điện tử được coi là chứng cớ pháp lý về bản chất và ngày tháng giao dịch. – Có các quy định chi tiết về phương thức thanh toán điện tử. – Có quy định về trung gian đảm bảo chất lượng ( nhằm bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng ). two. LỢI ÍCH CỦA THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ. one. Nắm được thông tin phong phú. Thương mại điện tử ( đặc biệt là chi sử dụng Internet/Web ) trước hết giúp cho các doanh nghiệp nắm được thông can phong phú vè kinh tế-thương mại ( có thể gọi chung là thông can thị trường ), nhờ đó có thể xây dựng được các chiến lược sản xuất và kinh doanh thích hợp với xu thế phát triển của thị trường trong nước, khu vực, và thị trường quốc tế. Điều này đặc biệt có ý nghĩa đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ – động lực phát triển chủ yếu trong các nền kinh tế hiện nay. two. Giảm qi phí sản xuất. Thương mại điện tử giúp giảm qi phí sản xuất, trước hết là chi phí văn phòng. Các văn phòng không giấy tờ ( paperless office ) chiếm diện tích nhỏ hơn rất nhiều, chi phí tìm kiếm chuyển giao tài liệu giảm nhiều lần ( trong đó khâu indium ấn gần như bỏ hẳn ). Theo số liệu của hãng Genaral electricity của Mỹ, tiết kiệm theo hướng này đạt tới thirty %. Điều quan trọng hơn là các nhân viên có năng lực được giải phóng khỏi nhiều công đoạn sự vụ có thể tập trung vào nghiên cứu phát triển sẽ đưa đến những lợi ích to lớn và lâu dài. three. Giảm qi phí bán hàng và tiếp thị. Thương mại điện tử giúp giảm thấp chi phí bán hàng và qi phí tiếp thị. Bằng phương tiện Internet/Web, một nhân viên bán hàng có thể giao dịch được với rất nhiều khách hàng, ca-ta-lô điện tử ( electronic catalogue ) trên world wide web phong phú hơn nhiều và thường xuyên cập nhật indeed với ca-ta-lô indium ấn chỉ có khuôn khổ
  22. Khoá luận tốt nghiệp -22- giới hạn và luôn luôn lỗi thời. Theo số liệu của hãng máy bay Boeing của Mỹ, nay đã có tới fifty % khách hàng đặt mua nine % phụ tùng qua internet ( và có nhiều hơn nữa các đơn đặt hàng về lao vụ kỹ thuật ), và mỗi ngày giảm được 600 cú điện thoại. four. Giảm chi phí giao dịch. Thương mại điện tử qua Internet/Web giúp người tiêu thụ và các doanh nghiệp giảm đáng kể thời gian và qi phí giao dịch ( giao dịch được hiểu là quá trình từ quảng cáo, tiếp xúc banish đầu, giao dịch đặt hàng, giao dịch thanh toán ). Thời gian giao dịch qua internet chỉ bằng seven % thời gian giao dịch qua fax, và chỉ bằng 0,5 phần nghìn thời gian giao dịch qua bưu điện. chi phí giao dịch qua internet chỉ bằng khoảng five % chi phí giao dịch qua facsimile hay qua bưu điện chuyển phát nhanh. chi phí thanh toán điện tử qua internet chỉ bằng ten % tới twenty % qi phí thanh toán theo lối thông thường. TỐC ĐỘ VÀ chi PHÍ TRUYỀN GỬI ( MỘT BỘ TÀI LIỆU forty TRANG ) * Từ new york tới tokyo Thời gian qi phí ( USD ) Qua bưu điện five ngày 7.40 Chuyển phát nhanh twenty-four giờ 26.25 Qua máy facsimile thirty-one phút 28.83 Qua internet two phút 0.10 * Từ new york tới Los Angeles Thời gian chi phí ( USD ) Qua bưu kiện 2-3 ngày 3.00 Chuyển phát nhanh twenty-four giờ 15.50 Qua máy facsimile thirty-one phút 9.36
  23. Khoá luận tốt nghiệp -23- Qua internet two phút 0.10 five. Giúp thiết lập và củng cố quan hệ đối tác. Thương mại điện tử tạo điều kiện cho việc thiết lập và củng cố mối quan hệ giữa các thành tố tham armed islamic group vào quá trình thương mại. Thông qua mạng ( nhất là dùng Internet/Web ) các thành tố tham armed islamic group ( người tiêu thụ, doanh nghiệp, các cơ quan chính phủ ) có thể giao tiếp trực tiếp và liên tục với nhau ( liên lạc “ trực tuyến ” ) gần như không còn khoảng cách địa lý và thời gian nữa, nhờ đó cả sự hợp tác lẫn sự quản lý đều được tiến hành nhanh chóng và liên tục. Các bạn hàng mới, các cơ hội kinh doanh mới được phát hiện nhanh chóng trên bình diện toàn quốc, toàn khu vực, toàn thế giới, và có nhiều cơ hội để lựa chọn hơn. six. Tạo điều kiện sớm tiếp cận kinh tế số hoá. Xét trên bình diện quốc armed islamic group, trước mắt thương mại điện tử sẽ kích thích sự phát triển của ngành công nghệ thông tin là ngành có lợi nhuận cao nhất và đóng vai trò ngày càng to lớn trong nền kinh tế ( ở Mỹ đã chiếm tỷ trọng khoảng 12- thirteen % và sẽ lên trên fifteen % trong tương lai không xa ). Nhìn rộng hơn, thương mại điện tử tạo điều kiện cho việc sớm tiếp cận với nền kinh tế số hoá ( digital economy ) mà xu thế và tầm quan trọng đã được đề cập ở trên. Lợi ích này có một ý nghĩa đặc biệt đối với các nước đang phát triển : nếu không nhanh chóng tiếp cận vào nền kinh tế số hoá, hay còn gọi là “ nền kinh tế ảo ” ( virtual economy ) thì sau khoảng một thập kỷ nữa các nước đang phát triển có thể bị bỏ rơi hoàn toàn. Khía cạnh lợi ích này mang tính tiềm tàng, tính chiến lược công nghệ và tính chính sách phát triển mà các nước chưa công nghiệp hoá cần chú ý ; vì có những luận điển cho rằng : sớm chuyển sing kinh tế số hoá thì một nước đang phát triển có thể tạo ra một bước nhảy vọt ( leapfrog ), có thể tiến kịp các nước đã đi trước trong một thời gian ngắn hơn .
  24. Khoá luận tốt nghiệp -24- three. CÁC ĐÒI HỎI CỦA THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ. one. Hạ tầng cơ sở công nghệ. Thương mại điện tử không phải là một sáng kiến ngẫu hứng, mà là hệ quả tất yếu của sự phát triển kỹ thuật số hoá, của công nghệ thông canister, mà trước hết là kỹ thuật máy tính điện tử. Vì thế, chỉ có thể thực sự có và thực sự tiến hành thương mại điện tử có nội dung và hiệu quả đích thực chi đã có một hạ tầng cơ sở công nghệ thông canister vững chắc ( bao gồm hai nhánh : tính toán điện tử và truyền thông điện tử ). Hạ tầng cơ sở ấy bao gồm từ các chuẩn của doanh nghiệp, của cả nước và sự liên kết của các chuẩn ấy với các chuẩn quốc tế, với kỹ thuật ứng dụng và thiết bị ứng dụng. Và không chỉ của riêng từng doanh nghiệp, mà phải là một hệ thống quốc armed islamic group, với tư cách như một phân hệ của hệ thống công nghệ thông can khu vực, và toàn cầu ( trên nền tảng của internet hiểu theo nghĩa rộng, nghĩa là bao gồm các phân mạng, và hệ thống liên lạc viễn thông toàn cầu ). Và phải tới được từng cá nhân trong hệ thống thương mại ( cho tới từng cá nhân người tiêu thụ ). Hạ tầng cơ sở công nghệ không chỉ có nghĩa là tính hiện hữu ( handiness ; nay cũng thường dùng “ tính thường hữu ” để diễn tả cả sắc thái ổn định ), mà còn hàm nghĩa có tính kinh tế sử dụng ( affordability ) ; nghĩa là qi phí trang bị các phương tiện công nghệ thông can ( điện thoại, máy tính, modem v.v. ) và qi phí dịch vụ truyền thông ( phí điện thoại, phí nối mạng và truy cập mạng ) phải đủ rẻ để đông đảo người sử dụng có thể tiếp cận được. Điều này có ý nghĩa đặc biệt to lớn đối với các nước đang phát triển, mức sống nói chung còn thấp. Cũng cần lưu ý thêm rằng hạ tầng cơ sở công nghệ thông can chỉ có thể có và hoạt động đáng tin cậy trên nền tảng một nền công nghiệp điện năng vững chắc, đảm bảo cung cấp điện năng đầy đủ, ổn định và với mức giá hợp lý. Thiết lập và củng cố được một hạ tầng công nghệ trên nền tảng công nghiệp điện năng như vậy đòi hỏi thời gian, hơn nữa phải đầu tư rất lớn, là điều đặc biệt khó khăn đối với các nước đang phát triển .
  25. Khoá luận tốt nghiệp -25- Theo đà phát triển của thương mại điện tử, nay đang có xu hướng mạnh mẽ ghép cả công nghệ bảo mật và associate in nursing toàn vào hạ tầng cơ sở công nghệ
    của thương mại điện tử. Bảo mật và an toàn không chỉ có ý nghĩa đối với các
    thực thể kinh tế, mà còn có ý nghĩa an ninh quốc gia.
    2. Hạ tầng cơ sở nhân lực.
    Thương mại trong khái niệm “Thương mại điện tử” động chạm tới mọi con
    người, từ người tiêu thụ tới người sản xuất, phân phối, tới các cơ quan chính phủ,
    tới cả các nhà công nghệ và phát triển.
    Áp dụng thương mại điện tử là tất yếu làm nảy sinh hai đòi hỏi: một là mọi
    người đều quen thuộc và có khả năng thành thạo hoạt động trên mạng; hai là có
    một đội ngũ chuyên gia tin học mạnh, thường xuyên bắt kịp các công nghệ thông
    tin mới phát triển để phục vụ cho kinh tế số hoá nói chung và thương mại điện tử
    nói riêng (nay đã đổi mới ở mức hàng tuần), cũng như có khả năng thiết kế các
    công cụ phần mềm đáp ứng được nhu cầu hoạt động của một nền kinh tế số hoá,
    tránh bị động lệ thuộc hoàn toàn vào người khác.
    Ngoài ra, nếu sử dụng Internet/Web, thì một yêu cầu tự nhiên nữa của kinh
    doanh trực tuyến là tất cả những người tham gia đều phải giỏi Anh ngữ vì tới nay
    (và có lẽ còn tới một thời điểm rất xa nữa) ngôn ngữ được sử dụng trong thương
    mại nói chung và thương mại điện tử qua mạng Internet nói riêng, vẫn là tiếng
    Anh (đương nhiên đây chủ yếu chỉ là “vấn đề” đối với các nước ít phát triển).
    Đòi hỏi này của thương mại điện tử sẽ dẫn tới sự thay đổi căn bản hệ thống
    giáo dục và đào tạo.
    3. Bảo mật, an toàn.
    Giao dịch thương mại bằng phương tiện điện tử đặt ra đòi hỏi rất cao về bảo
    mật và an toàn, nhất là khi hoạt động trên Internet/Web.
    Cho tới nay nhiều người vẫn không dám giao dịch qua Web. Trong lĩnh vực
    mua bán thuần tuý, người mua thì lo các chi tiết trong thẻ tín dụng của mình bị
  26. Khoá luận tốt nghiệp -26- lộ, và kẻ xấu sẽ lợi dụng mà rút tiền, người bán thì lo người mua không thanh toán cho các hợp đồng đã được “ ký kết theo kiểu điện tử ” qua vane. Trong các lĩnh vực khác, điều đáng ngại nhất là associate in nursing toàn và bảo mật dữ liệu. Điều lo sợ ấy là có căn cứ vì số vụ tấn công vào internet ngày càng tăng, kể cả vào những mạng được bảo vệ nghiêm ngặt. ( Cuối năm 1996, trang web của Bộ tư pháp Mỹ và của central intelligence agency bị truy nhập và bị thay đổi một số nội dung, đầu năm 1997 một loạt địa chỉ internet của Mỹ phải ngừng dịch vụ web và electronic mail trong một tuần vì bị “ giặc máy tính ” tấn công ). “ Giặc máy tính ” ( hack ) dùng nhiều thủ đoạn khác nhau : mạo quan hệ, bẻ mật khẩu ( nhất là mật khẩu yếu ), vi-rút và các chương trình “ phá từ bên trong ” giả mạo địa chỉ internet ( information science spoof ), phong toả dịch vụ ( do – denial of service ). Kỹ thuật mã hoá ( cryptanalysis ) hiện đại ( trong đó có kỹ thuật “ mã hoá khoá công khai/bí mật ) đã nói ở trên ), với khoá dài tối thiểu tới 1024, thậm chí tới 2048 bit, cộng với các công nghệ SSL ( guarantee socket layer ), set ( dependable electronic transaction ) đang giúp giải quyết vấn đề này, trong đó có vấn đề “ chữ ký điện tử ” hay “ chữ ký số hoá ” ( digital touch ), là chữ ký được biểu diễn bằng các sting điện tử và được xác thực thông qua giải mã. song bản thân các mã mật cũng có thể bị khám phá bởi các kỹ thuật giải mã tinh six, nhất là kỹ thuật của bên có đẳng cấp công nghệ cao hơn hẳn. Cho nên một chiến lược quốc armed islamic group về mã hoá kèm theo các chương trình bảo vệ associate in nursing toàn thông can của các cơ quan, doanh nghiệp và của cá nhân đang trở thành một vấn đề rất lớn. Trên quan điểm giao lưu quốc tế, vấn đề bảo mật và associate in nursing toàn còn có thêm một khía cạnh nữa : Ngày càng có nhiều nước áp dụng các luật ngăn cản không cho dữ liệu được truyền gửi tới các nước không có phương tiện thích đáng để bảo vệ thông can, nhằm tránh rò rỉ ( nhất là các thông can liên quan đến associate in nursing ninh quốc armed islamic group, vũ khí giết người hàng loạt, quan hệ quốc tế … ). Vì vậy, nếu không có các luật và phương tiện tốt để bảo vệ thông tin, thì một nước rất có thể sẽ bị cách ly khỏi hoạt động thương mại điện tử quốc tế .
  27. Khoá luận tốt nghiệp -27- four. Hệ thống thanh toán tài chính tự động. Thương mại điện tử chỉ có thể thực hiện thực tế chi đã tồn tại một hệ thống thanh toán tài chính ( fiscal requital ) phát triển, cho phép thực hiện thanh toán tự động ( trong đó, thẻ khôn minh có tầm quan trọng đặc biệt đối với kinh doanh bán lẻ ). chi chưa có hệ thống này, thì thương mại điện tử chỉ ứng dụng được phần trao đổi thông can, buôn bán vẫn phải kết thúc bằng trả tiền trực tiếp hoặc bằng các phương tiện thanh toán truyền thống. chi ấy hiệu quả của thương mại điện tử bị giảm thấp và có thể không đủ để bù các chi phí trang bị công nghệ đã bỏ radium. Hệ thống thanh toán tài chính đi liền với việc mã hoá toàn bộ hàng hoá, hay “ đánh số sản phẩm ” ( product total ) là vấn đề không chỉ có tính quốc armed islamic group, mà có tính quốc tế trên cơ sở của các chuẩn và định chế EAN external và uniform code council, thể hiện dưới dạng các vạch gọi là mã vạch ( bar – code ). Theo đó tất cả các sản phẩm hàng hoá và dịch vụ đều được mã hoá bằng một số thirteen memorize số, và tất cả các công ty đều có địa chỉ của mình bằng một mã có từ hundred đến 100.000 victimize số ( mã vạch là hệ thống mã dùng các vạch đen, trắng, màu có độ rộng khác nhau để biểu diễn các con số. Một máy quét dùng tế bào quang điện sẽ nhận dạng các vạch này, biến đổi thành convict số rồi tự động đưa vào máy tính để tính toán ). Việc hội nhập và thiết lập toàn bộ hệ thống mã sản phẩm và mã công ty ( gọi chung là mã hoá thương mại : commercial gull ) cho một nền kinh tế ( đặc biệt là nền kinh tế của nước đang phát triển ) nói chung cũng không đơn giản. five. Bảo vệ sở hữu trí tuệ. Càng ngày, giá trị sản phẩm càng cao ở khía cạnh “ chất xám ” của nó, mà không phải là bản thân nó, tài sản cơ bản của từng đất nước, từng tổ chức và từng memorize người đã và đang chuyển thành “ tài sản chất xám ” là chủ yếu. Thông can trở thành tài sản, và bảo vệ tài sản cuối cùng sẽ có ý nghĩa là bảo vệ thông tin. Vì lẽ
  28. Khoá luận tốt nghiệp -28- đó, nổi lên vấn đề bảo vệ sở hữu trí tuệ và bản quyền của các thông can trên world wide web ( các hình thức quảng cáo, các nhãn hiệu thương mại, các cơ sở dữ liệu, các droppings liệu truyền gửi qua mạng volt .. five .. ). Riêng đối với dung-liệu, vấn đề được đặt radium là bản thân việc số hoá nhị-phân các dữ liệu văn bản, hình ảnh, âm thanh để thành dung liệu truyền gửi đã là một hành động “ sao chép ”, “ phiên dịch ” và phải được tác giả đồng ý ( giống như dịch một tác phẩm ra một ngôn ngữ khác ). Nhưng vì đưa lên mạng nên “ số bản inch ” không thể biết được là bao nhiêu nên việc thoả thuận và xử lý trở nên hết sức khó khăn. Ở tầm xa hơn, người tantalum đã tính tới khía cạnh phức tạp hơn nữa của vấn đề là việc “ phân chia tài sản trí tuệ ” mua bán qua mạng. Thực ra người xem không quan tâm tất cả các qi tiết của chương trình, mà chỉ quan tâm một số trong đó. Vậy tiền bán chương trình sẽ được phân phối như thế nào cho các thành phần tham armed islamic group chương trình. Từ đây bắt đầu nảy sinh các định nghĩa mới, cụ thể hơn, qi tiết hơn và mang tính pháp lý hơn về “ thế nào là tác giả ”, và khái niệm “ thanh toán united states virgin islands phân ” ( micro – payment ) mà sẽ phải xử lý bằng các công cụ kỹ thuật cao cấp. six. Bảo vệ người tiêu dùng. Nhìn nhận trên cơ sở lý luận thương mại và lý thuyết thông tin thì từ xưa tới nay, một thị trường bị sụp đổ bao giờ cũng bắt nguồn từ nguyên nhân sâu xa là “ thông can không đối xứng ” ( asymmetrical information ), nghĩa là cái người bán biết khác với cái người mua biết. Tại thị trường ấy, người bán không có cách nào để thuyết phục người mua về chất lượng sản phẩm của mình. Người mua, do đó, chỉ chấp nhận trả một giá trung bình cho sản phẩm đó. Kết quả là họ chỉ mua được các sản phẩm chất lượng thấp ( vì các sản phẩm chất lượng cao người bán lại biết rõ ). Trong thương mại điện tử, thông canister về hàng hoá đều là thông tin số hoá, nói giản dị là người mua không có điều kiện “ nếm thử ” hay “ dùng thử ” hàng
  29. Khoá luận tốt nghiệp -29- trước chi mua. Chưa kể tới khả năng bị nhầm lẫn các cơ sở dữ liệu, bị lừa gạt bởi các thông can và các tổ chức phi pháp có mặt trên mạng. Vì thế, đang xuất hiện nhu cầu phải có một trung gian bảo đảm chất lượng ( quality guarantor ) mà hoạt động hữu hiệu và ít tốn kém. Đây là một khía cạnh cơ chế đáng quan tâm của thương mại điện tử mà đang được chú ý ngày càng nhiều trước thực tế các rủi ro ngày càng armed islamic group tăng, đả kích vào quyền lợi của người tiêu thụ. Cơ chế đảm bảo chất lượng đặc biệt có ý nghĩa với các nước đang phát triển, nơi mà dân chúng cho tới nay vẫn có tập quán tiếp xúc trực tiếp với hàng hoá để kiểm tra ( nhìn, sờ, nếm, ngửi … ) để thử ( mặc thử, đội thử, đi thử … ) trước chi mua. seven. Tác động văn hoá xã hội của internet. Tác động văn hoá xã hội của internet đang là mối quan tâm quốc tế, vì hàng loạt tác động tiêu cực của nó đã xuất hiện : internet trở thành một “ hòm thư ” giao dịch mua – bán dâm, massachusetts tuý và buôn lậu, các lực lượng phản xã hội đưa lên internet phim memorize heo ( pornography ), các tuyên truyền kích dục có mục đích đối với trẻ em, các hướng dẫn làm bom thư, làm chất nổ phá hoại, các loại tuyên truyền kích động bạo lực, phân biệt chủng tộc, kỳ thị tôn giáo volt .. five .. Ở một số nơi ( như Trung Quốc, Trung Đông … ). internet đã trở thành một phương tiện thuận lợi cho các lực lượng chống đối sử dụng để tuyên truyền, kích động lật đổ chính phủ và/hoặc gây rối loạn trật tự xã hội. Ngoài radium phải tính tới tác động cuốn hút thanh niên theo các lối sống không phù hợp với bản sắc văn hoá dân tộc là vấn đề đang được đặc biệt quan tâm ở Châu á. Mặc dù công nghệ đánh giá droppings liệu ( content rate ), lọc dung liệu ( content percolate ) đã và đang phát triển, nhưng về cơ bản tới nay vẫn chưa có biện pháp đủ hữu hiệu để chống trả các mặt trái nói trên của Internet/Web. eight. Hạ tầng cơ sở kinh tế và pháp lý. – Môi trường quốc armed islamic group : Trước hết, Chính phủ từng nước phải quyết định xem xã hội thông can nói chung và internet nói riêng là một hiểm hoạ hay là một
  30. Khoá luận tốt nghiệp -30- cơ hội. Quyết định đó không dễ dàng, ngay một nước hiện đại như Pháp cũng phải tới năm ninety-seven – ninety-eight mới quyết định được và tuyên bố rằng “ đây là cơ hội ” ( sau một thời gian dài chống lại internet vì nó chiếm mất vị trí của mạng Minitel vốn rất phổ biến trong nội bộ nước Pháp ). Từ khẳng định mang tính nhận thức chiến lược ấy mới thiết lập môi trường kinh tế, pháp lý và xã hội ( kể cả văn hoá, giáo dục ) cho nền kinh tế số hoá nói chung và cho thương mại điện tử nói riêng ( ví dụ quyết định đưa vào mạng các dịch vụ hành chính, các dịch vụ thu trả thuế và các dịch vụ khác như thư tín, dự báo thời tiết, thông báo giờ tàu xenon five .. v .. ) và đưa các nội dung của kinh tế số hoá vào văn hoá và giáo dục các cấp. Riêng về pháp lý có các vấn đề : + Thừa nhận tính pháp lý của giao dịch thương mại điện tử. + Thừa nhận tính pháp lý của chữ ký điện tử ( electronic signature ) – tức chữ ký dưới dạng số đặt vào một thông điệp dữ liệu ( datum message ) và chữ ký số hoá ( digital signature ) – tức biện pháp biến đổi nội dung thông điệp dữ liệu, chi dùng mã hoá để giải mới thu được nội dung thật của thông điệp dữ liệu ; và có các thiết chế pháp lý, các cơ quan pháp lý thích hợp cho việc xác thực / chứng nhận ( authentication/certification ) chữ ký điện tử và chữ ký số hoá. + Bảo vệ pháp lý các Hợp đồng thương mại điện tử. + Bảo vệ pháp lý các thanh toán điện tử ( bao gồm cả việc pháp chế hoá các cơ quan phát hành các thẻ thanh toán ). + Quy định pháp lý đối với các dữ liệu có xuất xứ Nhà nước ( các cơ quan Chính phủ và Trung ương ), chính quyền địa phương, doanh nghiệp nhà nước ( trong đó có các vấn đề phải giải quyết như : Nhà nước có phải là chủ nhân của các thông can có quyền được công khai hoá và các thông canister phải giữ bí mật hay không ? Người dân có quyền đòi công khai hoá các số liệu của chính quyền hay không ? chi công khai hoá thì việc phổ biến các số liệu có được xem là một nguồn thu cho ngân sách hay không ? volt .. volt .. ) .
  31. Khoá luận tốt nghiệp -31- + Bảo vệ pháp lý đối với sở hữu trí tuệ ( bao gồm cả bản quyền tác giả ) liên quan đến mọi hình thức giao dịch điện tử. + Bảo vệ bí mật riêng tư một cách “ thích đáng ” ( đề ngăn cản các bí mật đời tư bị đưa lên mạng một cách phi pháp, không chỉ tên tuổi, dung mạo mà còn cả các bí mật khác liên quan đến sức khoẻ, tôn giáo, quan điểm chính trị, giới tính, tình dục … ). + Bảo vệ pháp lý đối với mạng thông tin, chống tội phạm xâm nhập với các mục đích bất hợp pháp như thu thập can tức mật, thay đổi thông tin trên các trang web, thâm nhập vào các dữ liệu, sao chép trộm các phần mềm, truyền virut phá hoạiv .. five .. ; tới nay từng nước rất có thể đã có các luật đơn hành về các tội này, vấn đề là sẽ phải đưa vào khuôn khổ của bộ luật hình sự, một chi kinh tế số hoá được thừa nhận trên tầm quốc armed islamic group. Tất cả những việc trên đây chỉ có thể thực hiện được trên cơ sở mỗi quốc armed islamic group trước hết phải thiết lập một hệ thống “ mã nguồn ” cho tất cả các thông can số hoá, bắt đầu từ chữ cái của ngôn ngữ đó trở đi ; tiếp đó Nhà nước sẽ phải định hình một chiến lược chung về hình thành và phát triển một nền kinh tế số hoá. Tiếp đó đến các chính sách, các đạo luật và các quy định cụ thể tương ứng được phản ánh trong toàn bộ chỉnh thể của hệ thống nội luật. – Môi trường quốc tế. Các vấn đề môi trường quốc tế, pháp lý và xã hội quốc armed islamic group cũng sẽ in hình mẫu của nó vào vấn đề môi trường kinh tế, pháp lý và xã hội quốc tế, cộng thêm với các phức tạp khác của kinh tế thương mại qua biên giới, trong đó khía cạnh quan trọng nhất là thương mại điện tử mang tính không có biên giới, suffice đó làm mất đi tính ranh giới địa lý vốn là đặc tính cố hữu của ngoại thương truyền thống dẫn tới những khó khăn to lớn về luật áp dụng và điều chỉnh hợp đồng, về thanh toán đặc biệt là về thu thuế. Ví dụ : Một dữ liệu với tư cách là một dịch vụ được chuyển từ nước a đến một địa chỉ internet ở nước b-complex vitamin, tiếp đó lại chuyển đến người nhận thực sự ở nước
  32. Khoá luận tốt nghiệp -32- degree centigrade ( rất có thể cơ sở kinh doanh của người chủ địa chỉ internet ở nước b được đặt ở nước hundred ) ; vậy việc thu thuế sẽ thực hiện bằng cách nào và dùng luật nước nào để điều chỉnh thương vụ này. Một ví dụ khác : một người Đức đang đi du lịch bên Mỹ đặt mua một lô rượu vang australia giao tới một nơi nghỉ mát tại Pháp mà anh tantalum sắp du hành tới, thuế của thương vụ này sẽ doctor of osteopathy nước nào thu và thu bằng cách nào. Vấn đề còn khó khăn hơn nữa là đánh thuế các dung liệu, tức là các hàng hoá “ phi vật thể ” ( như âm nhạc, chương trình truyền hình, chương trình phần mềm … giao trực tiếp giữa các đối tác thông qua mạng ). Ngoài radium, cũng nảy sinh các khó khăn như : thu thuế trong trường hợp thanh toán vô danh ( anonimous payment ) bằng thẻ khôn minh ; vấn đề cách kiểm toán các công ty buôn bán bằng phương thức thương mại điện tử, vấn đề bảo vệ sở hữu trí tuệ, bảo vệ chính trị và bảo vệ bí mật riêng tư trong thông can xuyên quốc armed islamic group trên mạng internet giữa các nước có hệ thống luật pháp và hệ thống chính trị khác nhau ; vấn đề pháp luật quốc tế về sử dụng không gian liên quan đến việc phóng và khai thác các vệ tinh viễn thông five .. five .. Tất cả những vấn đề ấy đòi hỏi phải có các nỗ lực tập thể đa biên nhằm đạt tới các thoả thuận quốc tế làm căn bản cho “ victimize đường tơ lụa ” mới và trước hết là nhằm bảo vệ quyền lợi của các nước đang phát triển, còn ở tầm thấp về công nghệ thông tin, về cơ chế thuế khoá, về bảo mật và associate in nursing toàn. nine. Vấn đề lệ thuộc công nghệ. Không thể không thừa nhận rằng nước Mỹ đang khống chế toàn bộ công nghệ thông canister quốc tế, cả phần cứng cũng như phần mềm ( phần mềm hệ thống và phần mềm ứng dụng ), chuẩn công nghệ internet cũng là chuẩn Mỹ, các phần mềm tầm cứu và “ võng thị ” ( network ) chủ yếu cũng là của Mỹ, nước Mỹ cũng đi
  33. Khoá luận tốt nghiệp -33- đầu trong kinh tế số hoá và thương mại điện tử ( Mỹ hiện chiếm trên một nửa tổng doanh số thương mại điện tử toàn cầu, chủ yếu là buôn bán trong nước ). Ở một tầm cao hơn, có thể nhận xét rằng từ nhiều chục năm nay, trong chi đa số các nước còn đang vật lộn trong nền “ kinh tế vật thể ” thì Mỹ đã vượt lên và tiến nhanh trong nền “ kinh tế ảo ”, lấy “ kinh tế tri thức ”, “ sở hữu trí tuệ ”, “ giá trị chất xám ” làm nền móng. Đó là sự khác biệt căn bản giữa Mỹ và các nước khác. Sự khác biệt đó bộc lộ ngày càng rõ theo tiến trình nền kinh tế toàn cầu chuyển sing “ kỷ nguyên số hoá ” như đi theo một xu hướng tất yếu khách quan. Điều này giải thích vì sao trong đàm phán thương mại của Mỹ với bất cứ nước nào, vấn đề “ sở hữu trí tuệ ” luôn luôn nổi lên hàng đầu : đó chính là giá trị thực của nước Mỹ. Điều này cũng giải thích vì sao Mỹ là nước biện hộ, cổ vũ và thúc đẩy mạnh mẽ nhất cho thương mại điện tử : một chi thương mại được số hoá thì toàn thế giới trên thực tế sẽ nằm trong tầm khống chế công nghệ của Mỹ, Mỹ sẽ giữ vai trò người bán công nghệ thông tin cho toàn thế giới với công nghệ được đổi mới hàng ngày và thuần tuý ở “ nền kinh tế ảo ”, “ kinh tế tri thức ” ; các nước khác tiếp tục sản xuất các “ của cải vật thể ” phục vụ cho nước Mỹ. Bức tranh ấy nay đã khá rõ nét và để thay đổi nó chắc chắn phải cần đến những nỗ lực chiến lược lớn lao từ phía các đối thủ của Mỹ trong những quãng thời gian lịch sử. Mà trong những quãng thời gian ấy bản thân nước Mỹ cũng không lùi lại và đứng yên. Những nước ít phát triển hơn, đã chậm chân, rất có thể mãi mãi phải ở một tầm thấp dưới và bị phụ thuộc hoàn toàn về công nghệ vì điều kiện thực tế vĩnh viễn không cho phép họ đuổi kịp nữa. Sự phụ thuộc ấy không chỉ thể hiện ở những thiệt thòi về kinh tế, mà ở tầm cao hơn : Mỹ và các nước tiên tiến gần Mỹ về công nghệ thông canister có thể “ biết hết ” thông can của các nước thuộc đẳng cấp công nghệ thấp hơn. Nhiều cơ quan nghiên cứu đánh giá rằng rất có thể đây sẽ là một trong những nét đặc trưng cơ bản của trật tự thế giới mới trong thế kỷ twenty-one và đã lên tiếng cảnh báo các nước còn yếu kém về công nghệ thông can .
  34. Khoá luận tốt nghiệp -34- Vì lẽ đó, thương mại điện tử đang được các nước xem xét một cách chiến lược : sự du nhập vào nó là không thể tránh được, hơn thế còn là cơ hội : nhưng nếu chỉ vì bức bách mà tham armed islamic group hay chỉ tham armed islamic group vì các lợi ích kinh tế vật chất cụ thể thì không đủ, mà phải có một chiến lược thích hợp để khỏi trở thành quốc armed islamic group thứ cấp về công nghệ. CHƯƠNG two THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ Ở VIỆT NAM
  35. Khoá luận tốt nghiệp -35- I. TÌNH HÌNH VỀ HẠ TẦNG CƠ SỞ CHO THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ Ở VIỆT NAM. one. Hạ tầng cơ sở công nghệ thông canister. Công nghệ thông canister ( information technology ) gồm hai nhánh : tính toán ( computer science ) – cũng gọi là nhánh máy tính ; và truyền thông ( communication ), trên cơ sở của một nền công nghiệp điện lực vững mạnh, là nền tảng của “ kinh tế số hoá ” nói chung và “ thương mại điện tử ” nói riêng. Về công nghệ tính toán, người Việt nam đã biết đến máy tính điện tử từ năm 1968 chi chiếc máy tính đầu tiên do Liên Xô viện trợ được lắp đặt tại Hà Nội. Trong những năm 1970 ở phía Nam cũng có sử dụng một số máy tính lớn của Mỹ. Tới cuối những năm 1970 cả nước có khoảng forty dàn máy tính vạn năng thuộc các dòng minsk và east ở Hà Nội và IBM 360 ở Thành phố Hồ Chí Minh. Đầu những năm 1980, máy six tính bắt đầu được nhập khẩu vào Việt nam, mở đầu một thời kỳ phát triển nhanh việc can học hoá trong nước. Từ năm 1995 là năm bắt đầu triển khai Chương trình quốc armed islamic group về công nghệ thông canister, cũng là lúc các công ty hàng đầu thế giới như IBM, Compaq, horsepower five .. vanadium .. bắt đầu tham armed islamic group thị trường Việt nam, lực lượng máy united states virgin islands tính nhập khẩu tăng vọt với tốc độ +50 % /năm. Theo số liệu của ban chỉ đạo quốc armed islamic group về công nghệ thông canister ( dựa trên thống kê của Tổng cục Hải quan ) tới nay máy six tính các loại nhập vào Việt nam đã lên tới tổng số hơn four hundred nghìn chiếc ; nếu tính cả máy lắp ráp trong nước thì có nguồn tin ( đã đăng tải trên phương tiện phát thanh truyền hình ) đưa số liệu khoảng five hundred nghìn chiếc ; ngoài radium cũng có một số máy tính lớn thế hệ mới và khoảng two hundred máy mini. Máy tính cá nhân lắp ráp trong nước ( linh kiện nhập khẩu ) đang phát triển nhanh và theo ước tính đã chiếm khoảng seventy % thị phần với khối lượng sản xuất eighty – hundred nghìn máy tính một năm, doanh số máy tính lắp ráp năm 1998 là khoảng sixty-five triệu USD. Tại nhiều cơ quan và doanh nghiệp, dữ liệu có cấu trúc đã được quản lý bằng nhiều hệ quản trị cơ sở dữ liệu khác nhau ; đang xây dựng six cơ sở quốc armed islamic group cỡ lớn phục vụ mục tiêu tin học hoá quản lý Nhà nước. Hiện nay hầu như mọi cơ
  36. Khoá luận tốt nghiệp -36- quan nhà nước đều sử dụng máy tính cá nhân. Tuy nhiên chỉ dừng lại ở mức bổ trợ cho công việc của người sử dụng personal computer là chính, chưa có tác dụng nhiều trong việc giải quyết các mối liên hệ giữa người này với người khác, giữa tổ chức này với tổ chức khác – mà đây chính là đặc trưng của ứng dụng công nghệ thông tin hiện nay. Tới năm 1993, gần ninety-nine % máy tính nằm trong các tổ chức nhà nước. Hiện nay bức tranh phân bố đã thay đổi với tỷ lệ gần đúng sau đây : seventy-five % ở các cơ quan nhà nước và các doanh nghiệp, ten % ở các cơ quan nghiên cứu và quốc phòng, ten % ở các cơ sở giáo dục ( trường học, trung tâm … ) và five % ở các armed islamic group đình. Trong tổng số máy đã nhập vào tới nay và máy lắp ráp trong nước, nhiều máy đã thôi hoạt động vì hỏng hoặc không còn phù hợp về tính năng, nên theo ước tính số máy thực tế đang hoạt động hiện nay chỉ khoảng 350 nghìn chiếc. Tức là cường độ trang bị máy mới đạt khoảng gần five máy/1000 người ( so với eighty ở singapore và one hundred forty ở Hàn Quốc ) với mác máy bình quân tương đối thấp ( ví dụ, trong số trên 3000 máy đang hoạt động của Tổng cục bưu điện, ninety % là máy 486 trở xuống ). Cường độ sử dụng máy còn thấp : ở nhiều cơ quan đơn vị, máy tính được làm việc như máy đánh chữ là chủ yếu. Trang bị công nghệ thông tin của các cơ quan, doanh nghiệp và armed islamic group đình mất cân đối nghiêm trọng : phần cứng chiếm tới eighty % tổng qi phí ( lẽ radium ở giai đoạn này, phần mềm phải chiếm tỷ trọng thirty-five %. Nếu tính cả xây dựng đề án, đào tạo, triển khai, bảo hành v.v. cũng là các yếu tố thuộc phần mềm thì tỷ trọng phải lên tới sixty % mới hợp lý ). Công nghiệp phần mềm Việt nam ít phát triển, hoạt động phần mềm chủ yếu là dịch vụ cài đặt và hướng dẫn sử dụng. Số công ty sản xuất và kinh doanh phần mềm còn ít, sản phẩm phần mềm chủ yếu là các chương trình văn bản tiếng Việt ; giáo dục, văn hoá, kế toán tài chính, khách sạn, quản lý văn thư, điều tra thống kê ít có các phần mềm trọn gói có giá trị thương mại cao. Các công ty trong nước mới đạt ten % thị phần thị trường phần mềm. Tình hình phần mềm như trên suffice các nguyên nhân chủ yếu sau đây gây radium :
  37. Khoá luận tốt nghiệp -37- – Khách hàng ( các cơ quan đơn vị và cá nhân ) chưa quan niệm phần mềm là quan trọng và thiết yếu trong sử dụng thiết bị tin học ( chi mua thiết bị thường không đưa radium được đòi hỏi về phần mềm, thậm chí có khách hàng không rõ trang bị phần mềm để làm gì ). Vì vậy, phần mềm sản xuất radium khó bán được. – Phần mềm của nước ngoài và của các công ty khác trong nước sản xuất ra bị sao chép bất hợp pháp một cách local area network tràn khiến những nhà sản xuất phần mềm nản lòng sáng tạo, không muốn đầu tư vào lĩnh vực này. ( Ví dụ, phần mềm từ điển Anh – Việt của công ty Lạc Việt vừa ra thị trường đã bị sao chép bất hợp pháp, bán với giá chỉ bằng 1/2 giá nguyên gốc ). Thị trường công nghệ tin học Việt nam năm 1997 đạt tổng doanh số khoảng 450 triệu USD ( mới bằng 1,7 gross domestic product của Việt nam ; 1/5 doanh số thị trường công nghệ can học Châu Á, và khoảng 0,2 % thị trường công nghệ canister học toàn thế giới ), trong đó phần cứng chiếm khoảng eighty %, phần mềm five %, truyền dữ liệu five %, dịch vụ ten %. Năm 1998 dress bị khủng hoảng của nền kinh tế khu vực, doanh số sụt còn khoảng three hundred triệu USD ( trong đó các công ty Việt nam chiếm hundred triệu USD phần cứng và eighty triệu USD phần mềm. Phần mềm Việt nam hạn chế trong một ít bản tiếng Việt dịch từ các phần mềm ngoại quốc, các chưong trình quản lý trong mạng máy tính ngân hàng, tài chính trong phạm united states virgin islands vừa và nhỏ ). Về droppings lượng, thị trường công nghệ tin học Việt nam mới đứng hàng thứ thirteen – fifteen trong khu vực Châu Á Thái Bình Dương. Yếu tố tích cực có thể kể tới là thị trường này đang phát triển với tốc độ tăng trưởng cao ( khoảng forty – fifty % /năm ). Theo đề án “ Phát triển chuyên nghiệp phần mềm Việt nam 2000-2005 ” thì thị trường công nghệ phần mềm và dịch vụ nội địa nước tantalum đến năm 2005 sẽ vào khoảng 230 – 320 triệu USD. Việt nam armed islamic group nhập mạng toàn cầu tương đối chậm : tháng eleven năm 1997 mới chính thức bắt đầu nối mạng internet, tới đầu năm 1999 mới có khoảng seventeen nghìn thuê bao, chủ yếu thông qua bachelor of arts nhà cung cấp dịch vụ internet lớn nhất là VDC ( Công ty dịch vụ armed islamic group tăng và truyền số liệu ), FPT ( Công ty phát triển đầu tư công
  38. Khoá luận tốt nghiệp -38- nghệ ) và Netnam ( Viện công nghệ thông tin, thuộc Trung tâm khoa học tự nhiên và công nghệ quốc armed islamic group ). Đến nay Việt nam có khoảng one hundred fifty nghìn thuê bao và phát triển với tốc độ tăng thêm khoảng 7000 – 8000 thuê bao/tháng. Tóm lại, tuy có tốc độ tăng trưởng cao trong vài năm gần đây nhưng nền công nghệ tính toán của Việt nam vẫn còn rất nhỏ bé, đặc biệt là công nghệ phần mềm. Ngành truyền thông Việt nam những năm gần đây tăng trưởng tới seventy % /năm. Liên lạc viễn thông qua vệ tinh đã được ứng dụng, sử dụng vệ tinh thuê của nước ngoài ( đã có chương trình thuê phóng vệ tinh riêng ). Các thiết bị và công nghệ điều khiển tiên tiến đã được áp dụng trong ngành địa chính, ngành hàng không … Năm 1993, Tổng cục Bưu chính viễn thông thiết lập một mạng toàn quốc truyền dữ liệu trên X.25, gọi là mạng VIETPAC, nối thirty-two tỉnh và thành phố ( tức một nửa tỉnh thành cả nước ), mạng này không đủ đáp ứng nhu cầu truyền dữ liệu ngày càng tăng nên gần đây Tổng cục đã phát triển một mạng khung toàn quốc tên là VNN nối với internet và mạng nội bộ của các cơ quan nhà nước và tư nhân. Nhờ các mạng nội bộ và mạng quốc armed islamic group, công việc quản lý một số ngành đã được tin học hoá. Tuy nhiên, tính can cậy của dịch vụ truyền thông còn thấp và chi phí còn rất cao so với mức trung bình của người dân, vì vậy tính phổ cập chưa cao. Ngành điện lực ( là nền của hai nhánh tính toán và truyền thông ) đang gặp khó khăn : những năm gần đây, tiêu thụ điện toàn quốc tăng khoảng fifteen % /năm. Trước đây dự tính sẽ thừa điện, phải xuất khẩu, hai năm nay đã ở tình trạng thiếu điện ( nhất là vào mùa khô, vì gần seventy % sản lượng điện là từ thuỷ điện ). Năm 1998 sản xuất ở mức sixty triệu kwh/ngày, thiếu hụt two hundred triệu kwh ; năm 1999 thiếu hụt four hundred triệu kwh ( vì hạn nặng ). Tình trạng thiếu điện sẽ nghiêm trọng hơn trong những năm sắp tới, buộc phải chuyển một phần đáng kể sing điện nguyên tử,
  39. Khoá luận tốt nghiệp -39- nhưng chưa có tiến độ và chương trình cụ thể. Hệ thống phân phối điện hạ áp đang ở tình trạng chắp vá, cung cấp điện năng chưa ổn định. Tuy nhiên mới đây, công ty điện lực thành phố Hồ Chí Minh cho biết sẽ đầu tư 3500 tỉ đồng cho lưới điện thành phố vào năm 2005 và sẽ khắc phục triệt để các sự cố về điện của thành phố. Hy vọng rằng trong giai đoạn 2005 – 2010 ngành điện thành phố Hồ Chí Minh nói riêng và cả nước nói chung sẽ vươn lên ngang bằng trình độ phát triển chung của các nước tiên tiến trong khu vực. two. Cơ sở hạ tầng nhân lực. Gồm các chuyên armed islamic group công nghệ và đông đảo dân chúng. Cho tới năm 1980, ở nước tantalum chưa có khoa can học tại các trường đại học, cũng chưa có hệ thống đào tạo chuyên armed islamic group và cán bộ cho ngành này. Từ năm 1980, các trường đại học trong cả nước mở thêm khoa canister học, việc đào tạo trong nước dần dần được mở rộng. Hiện nay có six trường đại học của nhà nước được Nhà nước đầu tư cho các khoa công nghệ thông can với mục tiêu đào tạo 2000 cử nhân và kỹ sư tin học mỗi năm. Trong four năm qua six trường này đã đào tạo được khoảng 7000 cử nhân và kỹ sư. Tất cả các trường đại học khác đều có bộ môn can học và tất cả các sinh viên đều được đào tạo về can học đại cương. Nếu tính cả các trường khác và tự đào tạo hay tái đào tạo ( các nhà kinh tế, kỹ sư các ngành khác chuyển sing ) có thể ước lượng được mỗi năm chúng tantalum có thêm khoảng 3.500 người được đào tạo cơ bản về tin học. – Lực lượng chuyên armed islamic group công nghệ thông canister ở Việt nam hiện nay có thể chia thành một số nhóm : + Các chuyên armed islamic group kiến thức cao, được đào tạo ở nước ngoài hoặc các nhà toán học nhiều năm qua đã chuyển hướng spill the beans can học. + Các cán bộ đào tạo từ khoa tin học của các trường đại học ( chủ yếu là Đại học tổng hợp, Đại học Bách Khoa ), mỗi năm right ascension trường trên thousand người. Theo đánh giá của Hội tin học Việt nam, trong vài năm gần đây, các sinh viên
  40. Khoá luận tốt nghiệp -40- chuyên ngành can học chi tốt nghiệp right ascension trường đã có trình độ khá cao và trình độ được nâng lên khá nhanh sau chi họ được sử dụng vào thực tế. + Một lực lượng đông đảo thanh niên đã qua đào tạo canister học trong chi học phổ thông và đại học, hoặc đào tạo tại các trường, các trung tâm can học trong toàn quốc. Số này ước tính vài vạn người. + Ngoài right ascension cần tính tới đội ngũ Việt kiều làm tin học. Theo thống kê chưa đầy đủ có tới fifty nghìn người. Lực lượng này được các nước đánh giá là giỏi, nhiều người có trình độ rất cao ( nhất là những người ở Mỹ, Pháp và Ca-na-đa ), một số người là chuyên armed islamic group đầu đàn của các tổ chức tin học thế giới, có người làm cố vấn về phát triển tin học cho Tổng thống nước ngoài. Ưu điểm chính của lực lượng làm can học nước tantalum được đánh giá là thông minh, cần cù, sáng tạo và thích ứng nhanh với các xu hướng phát triển mới của công nghệ thông canister. Đặc biệt có khả năng làm việc tốt ngay cả trong những điều kiện khó khăn, thiếu thốn. Tuy nhiên, lực lượng chuyên armed islamic group tin học của tantalum cũng có một số nhược điểm : + Cho đến nay, các trường đại học trong nước chủ yếu đào tạo cán bộ làm phần mềm ( chỉ có Đại học Bách Khoa có một lớp dạy phần cứng ). Đó là practice lĩnh vực phần cứng đòi hỏi hạ tầng cơ sở mà tantalum chưa có, mặt khác cũng thiếu thày để dạy. Vì vậy, hiện nay tantalum bị thiếu chuyên armed islamic group phần cứng. + Trong lĩnh vực phần mềm, các chuyên armed islamic group Việt nam chưa phải đã đủ năng lực để xử lý các hệ thống và các ứng dụng toàn cục quy mô lớn. Nguyên nhân chủ yếu là hạ tầng cơ sở công nghệ thông canister toàn quốc chưa hình thành vững chắc nên chưa có môi trường thuận lợi cho tin-học-hệ-thống được ứng dụng và phát triển ở Việt nam. Chúng tantalum cũng thiếu những cán bộ lãnh đạo, quản lý dự án, phân tích hệ thống và đặc biệt là đội ngũ lập trình viên chuyên nghiệp. Chất lượng đào tạo còn nhiều bất cập doctor of osteopathy đội ngũ giáo viên không đủ điều kiện để cập nhật thông tin, không đủ điều kiện được nâng cao trình độ, thiếu phương tiện
  41. Khoá luận tốt nghiệp -41- nghiên cứu và giảng dạy, ít gắn bó với nhu cầu thực tiễn của sản xuất. Đến nay, internet vẫn như là món hàng xa xỉ đối với giáo viên và sinh viên. + Lực lượng cán bộ đào tạo từ các trường khá phong phú nhưng chưa tận dụng được. Một số xin việc ở các công ty nước ngoài, các công ty liên doanh nhưng chủ yếu làm tiếp thị, văn phòng, một số vào các công ty chuyên doanh công nghệ can học, nhưng đa số làm tiếp thị, một số tự đứng radium mở cửa hàng kinh doanh thiết bị phần cứng. Vì thế lực lượng đã qua đào tạo không thể tập hợp nhau lại trong các đề án lớn để phát triển, mà ngược lại, kiến thức kém dần đi, tới một lúc không phát huy được nữa. – Dân chúng đông đảo : Đào tạo tin học và thông tin tin học rộng rãi ( nhất là từ chi triển khai Chương trình quốc armed islamic group về công nghệ thông can ) đã làm cho canister học phổ thông không còn xa lạ với đông đảo dân chúng ở thành thị và các tụ điểm buôn bán khác. Tuy nhiên vẫn còn nhiều khoảng cách giữa việc “ có biết đến ” máy tính điện tử và các ứng dụng công nghệ thông canister, với khả năng “ ứng dụng thực ” các phương tiện đó, đặc biệt là ứng dụng Internet/Web. Ở nhiều cơ quan và doanh nghiệp, nhiều cán bộ, nhân viên chưa từng dùng máy tính điện tử. Những người được coi là biết sử dụng máy mới chỉ làm được và chỉ làm văn bản ở mức độ thấp, trình độ ứng dụng công nghệ thông can vào mục đích quản lý và kinh doanh nói chung còn rất thấp, thậm chí hoàn toàn chưa có. Riêng về ứng dụng Internet/Web, tỉ lệ người sử dụng internet trên thousand dân mới đạt 1,8. Cả nước chỉ có công ty VDC là nhà cung cấp duy nhất đầu vào mạng ( IAP ) và năm nhà cung cấp dịch vụ ( ISP ) kể cả VDC ( so với sixteen của Thái local area network và one hundred twenty ở Philipin ). Một số cơ quan đã nối mạng vào internet nhưng hiệu quả sử dụng rất kém ( một phân act chưa có kỹ năng sử dụng và practice trình độ Anh ngữ còn quá yếu then với yêu cầu của việc khai thác thông canister trên internet ). Xét cả về khía cạnh hạ tầng cơ sở công nghệ lẫn victimize người, có thể nói Việt nam vẫn là một nước

Có thể bạn quan tâm
© Copyright 2008 - 2016 Dịch Vụ Bách khoa Sửa Chữa Chuyên nghiệp.
Alternate Text Gọi ngay