Áp cao Xibia – Bách khoa Toàn thư Việt Nam

Áp cao Xibia là một vùng áp suất khí quyển cao, hình thành vào mùa đông trên khu vực phía nam Xibia.

Áp cao Xibia được hình thành do sự lạnh đi can đảm và mạnh mẽ của lục địa ; gắn liền với nó là một mùa đông dài, lạnh lẽo, ít tuyết ở vùng trong nước. Phần chính của áp cao Xibia hình thành trong khối không khí của vĩ độ ôn đới. Vào tháng 1, áp suất khí quyển ở TT của áp cao ( trên phía Nam Xibia và Mông Cổ ) vượt quá 1070 hPa, hay 1070 mb. [ 2 ]Áp cao Xibia sống sót ở 45 ° N ở phía đông bắc Xibia. Đây là một trong những TT hoạt động giải trí chính trong mùa đông ở bán cầu bắc ( Rossby, 1945 ). Sự ảnh hưởng tác động của độ cao đến áp cao Xibia hiếm khi được cảm nhận ở độ cao trên 2400 m vì nó được tạo thành từ không khí lạnh rậm rạp. Trục của áp cao nghiêng về phía nam can đảm và mạnh mẽ khi cường độ giảm. [ 3 ]

Không khí lạnh, khô phát triển trên khắp châu Á trong mùa đông bị hạn chế ở phía nam bởi dãy Hymalaya và các dãy núi khác kéo dài về phía tây về phía nam châu Âu. Các dãy núi dọc theo bờ biển phía đông châu Á đã hạn chế sự lan rộng của không khí lạnh về phía đông, trong khi không có chướng ngại vật lớn nào tồn tại ở phía tây để ngăn không khí ấm hơn đến từ Đại Tây Dương. Như một hệ quả của những điều kiện địa hình này, áp cao Xibia bị loại bỏ ở các vùng của bờ biển phía tây. Nói chung, vùng áp cao bao phủ khu vực rộng lớn từ sườn núi quanh Biển Caspi đến sông Anadyr ở phía đông bắc Xibia, tập trung quanh khu vực Baikal.[3]

Hình 2 – Áp suất mực nước biển trung bình ở châu Á vào tháng 7 từ năm 1970 đến 2020 (theo [4])- Áp suất mực nước biển trung bình ở châu Á vào tháng 7 từ năm 1970 đến 2020 ( theo tài liệu nghiên cứu và phân tích lại NCEP / NCAR, tìm hiểu thêm thêm Khromov, 1956Áp cao Xibia có khuynh hướng bị di dời về phía Thái Bình Dương của lục địa Âu – Á trong thời kỳ hoàn lưu tăng trưởng can đảm và mạnh mẽ. Sự di dời về phía tây theo hướng châu Âu xảy ra trong những quy trình tiến độ xen kẽ khi hoàn lưu yếu. Điều kiện thời tiết bị tác động ảnh hưởng thâm thúy bởi những đổi khác của áp suất. Ví dụ, tây-bắc châu Âu sẽ chịu một luồng không khí cực kỳ lạnh và khô từ châu Á trong thời hạn hoàn lưu yếu. [ 5 ]

Hình 3 – Áp cao Xibia trong hệ thống các vùng áp suất mực nước biển toàn cầu, trong tháng 1 từ năm 1970 đến 2020 (theo [6])- Áp cao Xibia trong mạng lưới hệ thống những vùng áp suất mực nước biển toàn thế giới, trong tháng 1 từ năm 1970 đến 2020 ( theo tài liệu nghiên cứu và phân tích lại NCEP / NCAR, tìm hiểu thêm thêm Khromov, 1956Hình 3 biểu lộ sự phân bổ áp suất mực nước biển tháng 1 trên toàn thế giới. [ 6 ] Từ map hoàn toàn có thể nhận thấy : sống sót một cao áp lạnh có quy mô lớn nhất trên Trái đất với tâm ở khu vực Baikal – Mông Cổ và được gọi là áp cao Xibia. Vùng TT áp cao được số lượng giới hạn bởi đường đẳng áp có giá trị 1035 mb .Từ map hoàn toàn có thể thấy ba sống áp cao lan rộng ra về ba phía : sống phía tây tới tận biển Caspi và Hắc Hải ( Biển Đen ) ; sống phía bắc tới sát Bắc Băng Dương ; sống đông nam tiến sâu vào miền nhiệt đới gió mùa tới Khu vực Đông Nam Á. Hai sống ở phía tây và phía bắc là hệ quả của những đợt xâm nhập lạnh theo sau front Bắc Băng Dương và front cực tăng trưởng từ phía tây, góp thêm phần tăng cường khối không khí lạnh trong khu vực áp cao Xibia. Trong quy trình chuyển dời về phía nam, không khí lạnh bị cao nguyên Tây Tạng chặn ở phía nam còn áp thấp Aleut khi đó lan rộng ra về phía tây nam chặn áp cao Xibia tăng trưởng về phía đông nên không khí lạnh chỉ hoàn toàn có thể xâm nhập xuống phía đông nam. Không khí lạnh sau khi xâm nhập tới miền đông nam Trung Quốc vượt qua những dãy núi ở khu vực này ( đáng kể nhất là dãy núi Nam Lĩnh có độ cao trung bình 2000 m ), dừng lại ở đây 1-2 ngày với ranh giới phía nam là front tĩnh Hoa Nam. Sau khi nhận bổ trợ không khí lạnh ở phía bắc tới, vượt qua dãy Nam Lĩnh xâm nhập xuống phía nam. [ 7 ]
Hình 4 – Áp cao Xibia trong chuỗi xoáy thuận với áp thấp trên Đài Loan và Nhật Bản và [7] Trên hình, các vùng áp cao thể hiện bởi chữ H màu xanh, còn vùng áp thấp thể hiện bởi chữ L màu đỏ.- Áp cao Xibia trong chuỗi xoáy thuận với áp thấp trên Đài Loan và Nhật Bản và áp thấp Aleut tăng trưởng rộng sang phía tây nam tạo với áp cao Xibia một dải khí áp lớn theo hướng tây-bắc – đông nam. Trên hình, những vùng áp cao biểu lộ bởi chữ H màu xanh, còn vùng áp thấp bộc lộ bởi chữ L màu đỏ .Trong một số ít trường hợp ngay vào giữa ngày đông, front lạnh nằm ở rìa phía nam áp cao Xibia lê dài lên phía hướng đông bắc tiếp nối với áp thấp trên Đài Loan, áp thấp trên Nhật Bản và áp thấp Aleut ở phía hướng đông bắc, tạo thành một chuỗi xoáy thuận. Trên chuỗi xoáy thuận front đó, áp cao Xibia đóng vai trò là áp cao kết thúc của chuỗi xoáy .Cường độ và vị trí của áp cao Xibia vào những tháng mùa đông cũng có sự đổi khác : Vào tháng 11, tâm ở vào 50 ° B và 90 ° Đ, khí áp tâm là 1030 hPa. Sang tháng 12, tâm vẫn ở vị trí của tháng 11 tuy nhiên khí áp ở tâm lên đến 1032 hPa. Đến đầu tháng 1, tháng TT của mùa đông, khí áp ở tâm lên đến 1034 hPa, tâm vẫn ở vĩ tuyến của tháng 11. Vào tháng 12 tâm dịch về phía Đông, khoảng chừng 95 ° Đ. Sang tháng 2, tâm vẫn ở nguyên vị trí của tháng 11, tuy nhiên cường độ giảm đi, khí áp ở tâm chỉ bằng tháng 12. Vào tháng cuối mùa, tâm vẫn ở vĩ tuyến 50 ° B tuy nhiên lùi về phía Tây, trên kinh tuyến 85 ° Đ. [ 8 ]

Gong D.Y và C.H. Ho (2002)[9] đã trích dẫn những kết quả nghiên cứu của các tác giả khác nhau về sự thay đổi của cường độ áp suất trong áp cao Xibia trong nhiều thập kỷ gần đây, cụ thể: Hansen và các cộng sự (1999) cho rằng, tốc độ tăng nhiệt độ trên vùng Xibia nhanh hơn so với tốc độ tăng trung bình toàn cầu và do nhiệt độ trên lục địa tăng nhanh hơn trên đại dương nên đã gây ra sự phân bố lại trường khí áp toàn cầu. Vì vậy, cũng như những trung tâm ảnh hưởng khác, áp cao Xibia có thể mạnh lên hay yếu đi trong nhiều năm. Theo Bin Wang (1963), Gong D. Y và Bin Wang (1999), trong 100 năm qua, áp cao Xibia đã mạnh lên trong những năm 60 nhưng lại yếu đi rất nhiều trong những năm 80 và đầu những năm 90. Kết quả nghiên cứu của chính các tác giả Gong D.Y và C.H. Ho cũng cho rằng, cường độ tại trung tâm áp cao Xibia yếu đi rõ rệt từ những năm 70 đến những năm 90 với xu thế giảm tuyến tính là -1,78mb/thập kỷ trong thời gian từ 1976-2000.

Xem thêm: Các bước soạn giáo án điện tử violet | https://dichvubachkhoa.vn – Congnghenews

Ảnh hưởng của không khí cực đới biến tính từ áp cao Xibia đến miền bắc Nước Ta[sửa]

Từ hình 3 ta thấy : đường dòng trung bình tháng 1 ( dải màu trắng trên hình, từ 1015 mb đến 1020 mb ) phân kỳ từ áp cao Xibia theo hướng hướng đông bắc xuống tây nam đưa không khí cực đới biến tính bao trùm khắp chủ quyền lãnh thổ Nước Ta. Trên thực tiễn, ở phía Bắc 16 ° B, những đợt xâm nhập của không khí cực đới, lạnh khô chỉ gây ra những dợt giảm nhiệt độ nhiều khi gió mùa đông bắc mạnh ngoài khơi biển Đông gây ra thực trạng nhiều mây và cho mưa ở Bắc Trung Bộ. Gió mùa đông bắc càng mạnh, năng lực mưa ở đây càng nhiều do hiệu ứng nâng của dãy Trường Sơn so với đông bắc. Ở phía nam vĩ tuyến này, không khí cực đới liên tục biến tính, nóng và ẩm lên nhiên nên khó phân biệt được với tín phong hướng đông bắc từ phần phía nam áp cao cận nhiệt đới Tây Thái Bình Dương trên khu vực này. Vào cuối mùa đông, gió mùa đông bắc thổi từ sống áp cao Xibia, lan rộng ra lệch sang phía đông đưa không khí cực đới qua quãng đường dài trên biển trước khi tới miền Bắc Nước Ta gây nên hiện tượng kỳ lạ giảm nhiệt độ và kèm theo thời tiến mưa nhỏ, mưa phùn. [ 10 ]

Tài liệu tìm hiểu thêm[sửa]

  1. Allaby M, Encyclopedia of Weather and Climate, Thành Phố New York : Facts on File, 2001
  2. Большая Российская энциклопедия, Научное издательство, 2013
  3. a bPetterssen S, Introduction to Meterology, 3 rd edn, Thành Phố New York : McGraw-Hill, 1969
  4. Trewartha G.T, Horne L.H, An Introduction to Climate, 5 th edn, Thành Phố New York : McGrawHill, 1980
  5. Rossby C.G, The scientific basis of modern meteorology, Handbook of Meteorology, Thành Phố New York : McGraw-Hill, 1945, pp. 502 – 529
  6. a bХромов С. П, Муссоны в общей циркуляции атмосферы, Сб. « Воейков и современные проблемы климатологии », Гидрометеоиздат, Л, 1956 .
  7. a b

    Trần Công Minh, Khí tượng và khí hậu đại cương, NXB Đại học Quốc Gia Hà Nội, 2006, 281 tr.

  8. Nguyễn Trọng Hiệu, Nguyễn Văn Thắng, Phạm Thị Thanh Hương, Gió mùa, hoàn lưu khí quyển trên khu vực Đông Á và Nước Ta, NXB Khoa học tự nhiên và công nghệ tiên tiến, 2012
  9. Gong D. Y, Ho C. H, TheS iberia High and climate change over middle to high latitude Asia, Theoretical and Applied Climatology, Volume 72, 2002, pp. 1-9 .
  10. Trần Công Minh, Khí tượng Synôp ( Phần nhiệt đới gió mùa ), NXB Đại học Quốc gia TP.HN, 2006, 167 tr .

Có thể bạn quan tâm
© Copyright 2008 - 2016 Dịch Vụ Bách khoa Sửa Chữa Chuyên nghiệp.
Alternate Text Gọi ngay