Giun đất – lumbricus terestris

Cách dùng giun đất để làm thuốc

Địa long là tên gọi trong Đông y của giun đất khi đã được điều chế thành một vị thuốc để chữa bệnh .
Quy trình biến giun đất thành địa long cũng khá đơn thuần. Khi giun đất được bắt về sẽ được làm sạch nhớt bằng tro nhà bếp hay rơm sau đó được rửa lại với nước bồ kết hoặc phèn chua .

Cắt bỏ phần đầu và đuôi của con giun. Người ta sẽ tuốt bỏ hết đất trong bụng giun ra rồi dùng một que nhỏ lộn lớp da bên trong ra để rửa sạch bằng nước muối hay nước nóng rồi đem phơi hoặc sấy khô.

Description: Giun đất

Giun đất
Giun đất cũng hoàn toàn có thể được rửa trọn vẹn bằng rượu trắng hoặc khi làm sạch nhớt sẽ được cắt bỏ phần đầu đuôi, rồi rạch bụng giun phanh ra, rửa sạch đất cát bên trong sau đó tấm rượu để giun săn lại rồi đem phơi khô .
Tùy vào điều kiện kèm theo, thói quen vùng miền mà có cách làm khác nhau, miễn sao hoàn toàn có thể làm sạch giun đất và phơi khô chúng để tạo thành địa long, làm thuốc chữa bệnh .

Các bài thuốc chữa bệnh từ giun đất – địa long

Theo Đông y địa long có vị mặn, hơi tanh, tính hàn, lành, có công dụng thanh nhiệt, bình can, hạ huyết áp, lợi tiểu, hạ sốt, … thường thì địa long được dùng để chữa những chứng bệnh sau :

Chữa sốt rét:

Bài 1 : 12 g đại long, 12 g hậu phác nam, 12 g vỏ cây xoan rừng, 8 g dây trần thông, 8 g trần bì, 8 g gừng. những vị phơi khô rồi tán nhuyễn, dây bột mịn trộn với hồ bón thành viên nhỏ, uống hết trong ngày .
Bài 2 : 8 g địa long, 40 g quả na điếc ( quả na có màu đỏ, nhỏ, lép ) ướp rượu sao vàng, 20 g phèn phi. Tất cả đống ý bột rồi trộn với nước tỏi, viên thành hạt đậu xanh. Người lớn dùng 2 lần / ngày, mỗi lần 10 viên. Uống liên tục trong 4-5 ngày .

Description: Giun đất sấy khô - địa long

Giun đất sấy khô – địa long

Chữa sốt cao, co giật:

30 g dại long, 100 g trám trắng đem phơi khô tán nhuyễn cả hai vị. Rây bột mịn, trộn với mật hoặc hồ viên lại, mỗi viên chừng 5 g. Uống 2 lần / ngày, mỗi lần 6 viên trước bữa ăn .

Chữa sốt phát ban, sốt xuất huyết:

5-6 con đại long, 10 g cỏ nhọ nồi, 8 g lá dâu, 8 g trắc bá, 8 g bạc hà, 8 g kinh giới, 5 g củ sả. Thái nhỏ những vị, đem phơi khô, sắc cùng 400 ml nước còn 100 ml, chia làm 2 lần uống hết trong ngày .

Chữa bệnh cao huyết áp:

12 g đại long, 50 g thịt gà, 50 g cần tây, 10 g cao ngựa, 10 g nấm hương, 5 g hành, 5 g gừng, 5 g muối. Cho tổng thể vào ấm nấu cùng 100 ml nước đến khi nhừ. Ăn hết 1 lần trong ngày .

Chữa liệt nửa người, mồm méo, sùi bọt:

8g địa long, 8g hoàng kỳ, 8g đương quy, 6g xích thược, 4g hồng hoa, 4g xuyên khung, 4g đào nhân. Sắc uống hàng ngày.

Chữa cấm khẩu, tê bại:

12 g địa long, 12 g bồ kết, 12 g lông nhím đem đốt cháy thành than, tán bột mịn. Uống ngày 2 lần, mỗi lần từ 4-8 g .
Ngoài ra, địa lòng đốt tồn tính, tán nhỏ, trộn với mỡ lợn bôi vào vết lở vành tau sẽ khỏi ngay. Bột địa long trộn với lòng trắng trứng gà, đánh nhuyễn phết trực tiếp vào bìu trẻ nhỏ bị sưng đau, công dụng cũng rất tốt .

IUN ĐẤT
Giun đất, vị thuốc Nam đặc trị chứng đột quỵ, sốt xuất huyết
Giun đất còn gọi là trùn đất hoặc Địa long, tên khoa học Pheretima asiatica Michaelsen, thuộc họ Cự dẫn MEGASCOLECIDAE. Giun đất làm thuốc là body toàn thân của con giun hoặc chỉ là phần thân sau khi đã rạch bỏ đất trong ruột và phơi, sấy khô. Giun đất có nhiều chi, loại giun làm thuốc là loại giun to, thường được gọi là trùn hổ. Trùn hổ có thân dài từ 10 đến 38 cm, lớn từ 5 đến 12 mm. Giun đất bắt về được rửa sạch nhớt bằng tro và nước nóng, rạch bụng, rửa sạch đất, cát và phơi hoặc sấy khô để dùng. Giun sấy khô làm thuốc có bán sẵn ở những hiệu thuốc Nam hoặc Bắc .

Giun đất chữa sốt xuất huyết.
Theo Y học cổ truyền, giun đất có vị mặn, tính hàn, không độc, vào các kinh Tỳ, Phế, Can, Thận, có tác dụng thanh nhiệt, giáng khí, trấn kinh, lợi tiểu, giải độc, phá ứ huyết.
Tác dụng thanh nhiệt trấn kinh của giun đất đặc biệt hữu dụng trong mọi trường hợp sốt cao dẫn đến hôn mê, co giật như sốt xuất huyết (SXH), sốt rét, viêm màng não, tai biến mạch não. Tác giả còn nhớ một trường hợp chữa SXH khá đặc biệt khoảng hơn chục năm về trước. Đó là dạo ở địa phương đang xảy ra một trận dịch sốt xuất huyết. Cô N., một người mẹ trẻ gần nhà có một đứa con 3 tuổi bị SXH đang nằm điều trị ở Bệnh viện Nhi của tỉnh. Hôm đó, lúc về nhà để lấy thêm quần áo trước khi vào lại Bệnh viện để trực chăm sóc đứa bé, cô ghé thăm và kể lể sự tình trong nước mắt. Đã mấy ngày trôi qua mà cháu bé vẫn không hạ được sốt. Nhìn cảnh nhiều đứa trẻ ở những giường chung quanh đã bất hạnh ra đi, cô không nghĩ con mình sẽ qua khỏi. Còn nước còn tát. Tôi đã cho cô 10 con giun đất phơi khô có sẵn với lời dặn rửa sơ qua, đổ ít nước, cho thêm vài hạt gạo rang, nấu cô lại như nước cháo và đổ cho cháu uống. Tôi giải thích thêm, ngoài tác dụng hạ sốt, chống làm kinh, giun đất có hàm lượng đạm động vật rất cao, vốn dĩ là một vị thuốc chữa suy dinh dưỡng trẻ em. Do đó, uống nước cháo giun sẽ không có hại gì. Như một cái phao cứu sinh cuối cùng để bám lấy, cô đã làm theo lời dặn. Đứa bé hạ sốt nhanh chóng. Ba ngày sau, đứa bé được xuất viện trước sự ngạc nhiên của những người xung quanh. Cô không dám nói gì về việc đã cho uống giun đất, vì có nói chưa chắc đã có ai tin.
Theo các nhà khoa học Trung Quốc, bột giun đất có tác dụng hạ sốt. Đối với sốt do cảm nhiễm, cho uống 0,3g thuốc có tác dụng giảm sốt. Tác dụng xuất hiện sau nửa giờ đến 3 giờ. Năm 1915, Điền Trung và Ngạch Điền, 2 nhà nghiên cứu người Nhật, qua thí nghiệm trên súc vật đã xác định được hoạt chất làm hạ sốt trong giun đất là Lumbrifebrin. Theo tài liệu và kinh nghiệm của Lương y Nguyễn An Định, những trường hợp sốt cao, hôn mê, giun đất có tác dụng hữu hiệu trong vòng từ 63 đến 65 phút! Năm 1969, nguyên Bộ Trưởng Y Tế Nguyễn Văn Hưởng đã từng cho phổ biến bài thuốc “Thần Dược Cứu Mệnh” do ông Đinh đề xuất mà vị chủ dược là giun đất để kiểm soát thành công dịch SXH ở nhiều tỉnh thành miền Bắc lúc bấy giờ. Sau đó, trong thơ mời ông Định đến dự hội nghị tổng kết công tác chống dịch SXH do Sở Y Tế Hà Nội tổ chức có ghi “Nói chung, thuốc Nam trị bệnh này đạt hiệu quả rõ ràng và nhanh chóng hơn Tây y. Tuy nhiên, trong khi những bệnh nhân dùng những bài thuốc khác vẫn có trường hợp tử vong, duy có bài giun đất của đồng chí là cứu sống 100%, không có ca tử vong nào”.

Thuốc đặc hiệu chống đột quỵ, 20 triệu và 20 ngàn!
Tai biến mạch não, còn gọi là đột quỵ, dẫn đến tử vong hoặc tàn phế là nỗi ám ảnh của nhiều người. Thống kê của Tổ chức Y tế thế giới cho biết cứ mỗi 6 giây có một người bị đột quỵ. Khoảng 80% đột quỵ là do nhũn não, nghẽn mạch máu não. Số còn lại là do xuất huyết não. Hiện nay, theo số liệu của Hiệp hội Nhận thức về Đột quỵ (Stroke Awareness Foundation) ở Mỹ, trong khi điều trị nội khoa bằng thuốc tPA (Tissue Plasminogen Activator) để làm tan sợi huyết vẫn là biện pháp điều trị đặc hiệu đối với những trường hợp nghẽn mạch máu não thì mới có chưa đến 2% số bệnh nhân được sử dụng thuốc này. Có nhiều lý do, hoặc chẩn đoán sai, hoặc không được chuyển đến cơ sở chuyên môn chống đột quỵ trong vòng 3 giờ đầu tiên hoặc sự cẩn trọng cần thiết để tránh gia tăng sự xuất huyết. Là một loại thuốc đặc trị lại quá đắt (tại Việt Nam một liều gần 20 triệu đồng), nên không có sẵn ở những cơ sở đa khoa thông thường cũng có thể là một lý do. Trong khi đó, từ lâu y học cổ truyền đã có kinh nghiệm dùng giun đất để làm tan ứ huyết trong các chứng tai biến về não. Cổ phương “Bổ dương hoàn ngũ thang” chuyên chữa các trường hợp trúng phong, tai biến mạch não bao gồm Địa long, Đương quy, Xuyên khung, Hồng hoa, Hoàng kỳ, Xích thược và Đào nhân là một ví dụ. Ngày nay, nhiều phương dược kinh nghiệm chữa trúng phong, tai biến mạch não ở Trung Quốc như Địa long Đan sâm thang, Đào Hồng thông mạch phương, Thông mạch sơ lạc phương cũng có sử dụng vị Địa long.

Từ năm 1911, những nhà khoa học người Nhật đã tìm được hoạt chất Lumbritin trong giun đất có tính năng phá ứ huyết. Gần đây, tại Nước Ta, Tiến sĩ Nguyễn thị Ngọc Dao cũng đã công bố khu công trình điều tra và nghiên cứu về giun quế và cho biết những loại giun đều có chứa enzym fibrinolytic – một loại protein trong máu – có công dụng làm tan những cục máu đông trong những chứng đột quỵ. Ngoài ra, với tính hàn và những tính năng lợi tiểu, giáng khí, hạ huyết áp, giun đất hoàn toàn có thể giúp chỉ huyết, không sợ làm tăng thực trạng xuất huyết nên còn sử dụng được trong những những chứng đột quỵ do xuất huyết não trong khi tPA bị chống chỉ định trong những trường hợp này. Đặc biệt giun đất còn có thành phần của nhiều loại axít amin khác nhau như Alanin, Valin, Leucin, Phenyllalanin, Tyrosin, Lysin … giúp nuôi dưỡng tế bào thần kinh và cải tổ hoạt động giải trí của não bộ. Có lẽ do tập hợp được nhiều tính năng, giun đất hồi sinh được nhiều trường hợp đột quỵ đã hôn mê sau nhiều ngày, kể cả việc cải tổ suy giảm trí nhớ, nhận thức trong nhiều trường hợp .
Trở lại bài “ Thần dược cứu mệnh ”. Toa thuốc và tên của bài thuốc này đã Open từ đầu thế kỷ trước, được in lại trong quyển sách “ Hai trăm bài thuốc quý ” của ông Lê văn Tình vào năm 1940 với ghi chú là “ chủ trị làm ban, ôn dịch và những bệnh nan y, công hiệu như thần, bệnh lui sau 60 phút ”. Trong một loạt bài viết được phổ cập trên báo Long An vào năm 1997, ông Định có viết “ những dạng hôn mê do sốt xuất huyết hoặc tai biến mạch máu não chưa quá 10 ngày chỉ cần 3 thang, có khi chỉ 1 thang cũng hết bệnh ”. Bài thuốc nguyên thủy gồm 3 vị : Giun đất phơi khô 50 g, Đậu đen 100 g, Lá bồ ngót phơi khô, sao qua 200 g. Dùng 4 chén nước, sắc còn hơn nửa chén, chia làm 2 lần cho người bệnh uống hoặc đổ vào miệng nếu đã bất tỉnh nhân sự. Tính thành tiền, toa thuốc chưa đến 20 ngàn đồng. Trên trong thực tiễn, nhiều người đã được chữa khỏi nhờ bài thuốc này, hầu hết là vị giun đất ….
( Theo Võ Hà, CTQ số 114 )

Ngoài ra, giun đất còn được dùng để điều chế thuốc chống ung thư:
Các nhà khoa học Ba Lan cho biết, các loại vi khuẩn có trong ruột của loài giun đất có thể được sử dụng để điều chế các loại thuốc phòng ngừa ung thư.
Loại vi khuẩn trong ruột giun đất có thể được sử dụng để điều chế các loại thuốc phòng ngừa ung thư
Theo các nhà khoa học, do đặc tính sinh sống và ăn các loại sinh vật dưới các lớp đất bẩn nên giun đất có hệ miễn dịch rất phát triển. Các loại vi khuẩn có trong ruột của sinh vật này chứa các thành phần có khả năng chống lại các tế bào ung thư trong cơ thể người.

Đây là một cải tiến vượt bậc trong việc tìm cách chữa bệnh ung thư, căn bệnh cướp đi sinh mạng của hàng chục nghìn người mỗi năm trên toàn quốc tế. GS. Keith Jones – Viện Nghiên cứu Ung thư Anh cho biết : Việc tìm ra những loại vi trùng có năng lực ngưng trệ sự tăng trưởng của những tế bào ung thư là bước tiên phong rất đơn thuần .
Điều quan trọng nhất là làm thế nào để đưa những loại vi trùng này vào khung hình người và khiến chúng phát huy công dụng .

Trong khi giới khoa học thế giới nói chung vẫn đang không ngừng nỗ lực nhằm tìm ra các phương pháp điều chế thuốc phòng ngừa và chữa trị căn bệnh ung thư, thì phát hiện này là một bất ngờ lớn mang lại tin vui cho nhiều người bệnh.
(Theo SKĐS)

Theo Đại tá, BS Hoàng Văn Sỹ, nguyên Phó Giám đốc Viện Y học Cổ truyền Quân đội : Giun đất hay còn gọi là địa long, có vòng đai chiếm 8 đốt. Giun đất có ở khắp nơi, đa phần sống ở nơi đất ẩm, lắm mùn. Muốn bắt giun người ta đổ nước bồ kết hay nước rau nghể, nước chè vào những nơi có nhiều giun, giun sẽ bò ra, bắt bỏ vào tro rơm, dội nước ấm cho sạch nhầy nhớt. Sau đó lấy dao sắc rạch từ đầu đến đuôi, dùng nước rửa sạch đất cát trong bụng rồi phơi hay sấy khô .

Giun đất có vị mặn, tính hàn, vào 3 kinh tỳ, vị, thận có tác dụng thanh nhiệt, lợi tiểu, giải độc. Giun đất thường dùng trong nhân dân làm thuốc chữa sốt rét, sốt cao, ho hen, cao huyết áp, bệnh động kinh, viêm gan B… Liều dùng từ 6 – 12g/ngày, dưới dạng thuốc sắc kết hợp giun đất với các vị thuốc khác như đậu xanh, rau ngót, đậu đen…
Theo bs Tiểu Lan: Có một số bài thuốc dùng giun đất (địa long):
Bài 1: địa long khô 8g, xuyên ô đầu 8g, thảo ô đầu 8g, thiên nam tinh 8g, nhũ hương 6g, một dược 6g. Tất cả nghiền thành bột, phun rượu sau đó làm hồ hoàn. Mỗi lần uống 4g, uống với nước sắc kinh giới hay nước sắc thang tứ vật (thục địa 20g, đương quy 12g, bạch thược 12g, xuyên khung 6g). Dùng cho chứng bệnh thấp nhiệt gây sưng nóng đỏ đau khớp, đi tiểu vàng mà ít. Tác dụng hoạt lạc, giảm đau.
Bài 2: địa long 12g, liên kiều 12g, câu đằng 16g, kim ngân hoa 16g, bọ cạp 4g. Sắc uống. Hoặc lấy địa long 12g, chu sa 4g, làm thành hoàn. Mỗi ngày uống 4g. Tác dụng thanh nhiệt, cắt cơn kinh giật, tốt cho người sốt cao co giật.
Bài 3: địa long đỏ, củ tỏi, lá khoai lang, liều lượng bằng nhau. Giã nát, đắp lên rốn. Có thể uống kèm với các thuốc lợi niệu. Tác dụng: lợi niệu thông lâm. Dùng khi thấp nhiệt làm cho tiểu tiện không lợi, hoặc bí đái do kết sỏi.
Bài 4: địa long 12g. Sắc uống. Có thể lấy địa long nghiền thành bột, ngày uống 2 lần, mỗi lần 4g. Dùng cho các chứng bệnh ho, hen suyễn, trẻ em ho gà… do hỏa nhiệt.
Bài 5: địa long, cam thảo sống, liều lượng bằng nhau. Nghiền thành bột mịn. Ngày uống 2 lần, mỗi lần 6g. Trị hen phế quản.
Bài 6: địa long 12g, vỏ rễ xoan 12g, hậu phác nam 12g, gừng 8g, trần bì 8g, dây thần thông 8g. Tất cả phơi khô, tán bột, làm hoàn. Uống 2 lần trong ngày. Chữa sốt rét.
Bài 7: Rượu địa long: địa long chế 40g, rượu 600C 100ml cùng đem ngâm trong 3 ngày, dùng vải xô lọc thành rượu địa long 400C. Mỗi lần uống 10ml. Ngày 3 lần, dùng cho các trường hợp kinh giật, sốt rét cơn, phong thấp.
(Báo SKĐS).


Có thể bạn quan tâm
© Copyright 2008 - 2016 Dịch Vụ Bách khoa Sửa Chữa Chuyên nghiệp.
Alternate Text Gọi ngay